Jean-Jacques Rousseau (1712 – 1778) PDF. In Email
Thứ năm, 14 Tháng 4 2016 10:01

Jean-Jacques Rousseau (painted portrait).jpg

Ảnh từ Internet

Trong lịch sử tư tưởng nhân loại, Jean Jacques Rousseau được biết đến không chỉ với tư cách nhà tư tưởng vĩ đại, nhà Khai sáng lỗi lạc của Triết học Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII. Ông còn được biết đến với tư cách nhà chính trị học, nhà nghệ thuật học, nhà văn, nhà giáo dục học.


Với tư cách nhà triết học, về phương diện thế giới quan, J.J.Rousseau là người theo thuyết thần luận. Ngoài sự tồn tại của thần linh, ông còn thừa nhận sự tồn tại của linh hồn bất tử. Trong lĩnh vực lý luận nhận thức, ông đề cao cảm giác luận, mặc dù ông thừa nhận tính chất bẩm sinh của các ý niệm đạo đức(1). Trong đạo đức học, ông coi đức hạnh là “khoa học cao siêu của các tâm hồn đơn sơ”, bởi triết học đích thực là “lắng nghe tiếng nói của lương tâm”(2).


Với tư cách nhà chính trị học, J.J.Rousseau mang lập trường cấp tiến. Ông là đại diện tiêu biểu cho tầng lớp tiểu tư sản theo đường lối cánh tả trong các nhà Khai sáng Pháp. Từ lập trường cấp tiến - tả khuynh, ông phê phán gay gắt các quan hệ đẳng cấp phong kiến và chế độ chuyên chế, ủng hộ nền dân chủ tư sản và các quyền tự do của công dân, tán thành sự bình đẳng của con người bất chấp nguồn gốc xuất thân; đồng thời, lên án các lãnh tụ chính trị đề cao khía cạnh kinh tế và hạ thấp vai trò của đạo đức, của đức hạnh trong chính trị. Những tư tưởng này của ông đã trở thành khẩu hiệu và phương châm hành động của giai cấp tư sản Pháp trong cuộc cách mạng (1789 - 1794).


Với tư cách nhà nghệ thuật học, mặc dù thừa nhận nghệ thuật là lĩnh vực mãi mãi cần thiết cho nhân loại, song J.J.Rousseau vẫn giữ quan điểm coi nghệ thuật là lĩnh vực luôn chứa đựng những yếu tố nhục cảm và do vậy, nó luôn bị con người sử dụng cho những mục đích bất chính của họ và là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng suy đồi của xã hội. Với năng khiếu âm nhạc, ông đã đề xuất một kiểu ký âm mới cho âm nhạc và sáng tác nhạc kịch.

Với tư cách nhà văn, J.J.Rousseau đã để lại cho nhân loại những áng văn tuyệt tác ca ngợi tình yêu chân thật, đấu tranh cho tự do hôn nhân, tự do luyến ái. Những cuốn tiểu thuyết của ông đã tạo nên một trào lưu văn học lãng mạn mới, trong đó tiểu thuyết July hay nàng Heloise mới được coi là câu chuyện tình nổi tiếng nhất thế kỷ XVIII.


Với tư cách nhà giáo dục học, J.J.Rousseau kịch liệt phê phán hệ thống giáo dục theo đẳng cấp của chế độ phong kiến và đề xuất xây dựng một hệ thống giáo dục mới lấy việc đào tạo những công dân tích cực, biết quý trọng lao động làm mục tiêu chính.


J.J.Rousseau sinh ngày 28 tháng 6 năm 1712 trong một gia đình thợ thủ công làm nghề sửa chữa đồng hồ ở Geneve (Thụy Sĩ). Ông nội của J.J.Rousseau vốn là người Pháp. Bố đẻ của J.J.Rousseau là Issac Rousseau. Khi J.J.Rousseau mới ra đời được 9 ngày thì mẹ đẻ ông mất. Mười năm tuổi thơ của cậu bé mồ côi J.J.Rousseau sống trong sự đùm bọc, nuôi dạy của cha. Ông Issac Rousseau cho cậu con trai đọc rất nhiều cuốn sách viết về cuộc đời và sự nghiệp của các nhân vật lịch sử. Trong số đó, J.J.Rousseau thích nhất là những cuốn sách của Plutarque (50 - 125) viết về các nhân vật lịch sử Hy Lạp và La Mã cổ đại. Sau này, khi nhớ lại thời thơ ấu của mình, J.J.Rousseau đã nói rõ, sở dĩ ông thích các tác phẩm của nhà văn Hy Lạp cổ đại là bởi chúng đã đem đến cho ông một tinh thần tự do và cộng hòa, một tính cách bất khuất và kiêu căng, một lối sống không cam chịu, không chấp nhận số phận nô lệ(3).


Năm 1722, do khó khăn trong cuộc sống gia đình, ông Issac Rousseau đã phải rời bỏ Geneve đi kiếm sống ở nhiều nơi. Ông gửi J.J.Rousseau cho em trai mình ở lại Geneve. Trong 5 năm sống với chú ruột, thoạt đầu J.J.Rousseau được gửi vào học ở một trường nội trú và tại đây, theo lời ông kể trong tập hồi ký – Tự bạch,“chúng tôi học… tất cả cái rác rưởi vớ vẩn từng được coi là sự giáo dục”(4). Sau hai năm, ông thôi học ở đây để theo học nghề chạm khắc vỏ đồng hồ. Trong những năm tháng này, mặc dù có cuộc sống không đến nỗi vất vả, lại được sống ở Geneve - nơi mà trong lòng chế độ phong kiến đã có sự xuất hiện của bầu không khí dân chủ tư sản, nhưng vốn là con người có khát vọng tự do từ nhỏ, J.J.Rousseau luôn cảm thấy cuộc sống của mình là tù túng, bản thân mình bị bạc đãi, coi khinh. Do vậy, ngày 14 tháng 3 năm 1728, khi gần tròn 16 tuổi, J.J.Rousseau đã tìm cách trốn khỏi Geneve.


Trong những năm tháng lưu lạc để kiếm sống và mưu tìm sự nghiệp, từ 1728 đến 1741, thoạt đầu ở Thụy Sĩ, sau đó ở Pháp, Italia và năm 1742 đến Paris - thủ đô nước Pháp, J.J.Rousseau đã trải qua nhiều công việc, từ thư ký sở địa chính, chép nhạc thuê đến gia sư. Ở đâu, làm nghề gì, ông cũng luôn gặp khó khăn trong cuộc sống, không hài lòng với công việc và phải chứng kiến những cảnh bất công, phi lý. Ngay cả ở Paris – thủ đô hoa lệ của nước Pháp, ông cũng luôn cảm thấy xã hội thượng lưu xa lạ với chính mình, xa lạ với cuộc sống của những người lao động mà ông yêu mến. Để ổn định cuộc sống, đã có lúc ông buộc phải từ bỏ đạo Tin lành mà ông vốn là một tín đồ ngay từ nhỏ để trở thành một tín đồ Giatô giáo theo ý muốn của người khác. Mặc dù phải lo kiếm sống hàng ngày, song J.J.Rousseau vẫn không từ bỏ thói quen đọc sách. Ở tuổi 20, ông đã đọc rất nhiều tác phẩm của Plato, Virgil, Horace, Montaigne, Pascal, Voltaire,… Với ông, đọc sách bao giờ cũng là công việc hứng thú và là cách tốt nhất để tự trang bị kiến thức. Tư duy triết học, chính trị học, văn học và cả âm nhạc, nghệ thuật của ông đã được hình thành và phát triển trong chính những năm tháng lưu lạc để kiếm sống này. Vào những năm cuối của cuộc sống lưu lạc này, ông đã bắt đầu ghi chép những suy nghĩ tản mạn của mình về những lĩnh vực mà ông quan tâm.


Sự nghiệp sáng tạo lý luận của J.J.Rousseau thực sự bắt đầu trong những năm 1742 - 1756 khi ông chuyển tới sống ở Paris.


Năm 1742, J.J.Rousseau viết tác phẩm đầu tay - Kiến nghị lập bản ký âm mới cho âm nhạc. Ông gửi bản kiến nghị này lên Viện Hàn lâm khoa học Paris, nhưng không được Hội đồng giám định thông qua, vì phương pháp ghi âm mới của ông còn rắc rối, phức tạp hơn cách ghi nốt nhạc đương thời.


Năm 1743, J.J.Rousseau làm thư ký riêng cho De Montaigu - Đại sứ Pháp tại Vinise. Với công việc này, ông đã có thêm những hiểu biết về chính trị. Song, với bản tính của một con người phóng khoáng, yêu tự do, ông không chịu nổi cách đối xử keo kiệt, bủn xỉn và thái độ trịnh thượng của viên đại sứ này và do vậy, ông đã xin thôi việc (năm 1744).


Năm 1745, J.J.Rousseau làm quen, rồi sau đó kết hôn (1768) và sống trọn đời với cô gái nghèo, thất học Therese Levasseur - người đã chia sẻ với ông mọi nỗi đau buồn của cuộc sống, cùng ông nếm trải mọi khó khăn, gian khổ cũng như niềm hạnh phúc giản dị. Trong tập hồi ký - Tự bạch, khi nói về Therese Levasseur, ông viết: “Therese là niềm an ủi duy nhất và có thực mà Trời đã ban cho tôi trong cảnh cùng khổ, và chỉ riêng niềm an ủi ấy đủ giúp tôi chịu đựng được cuộc đời”(5).


Năm 1746, J.J.Rousseau làm thư ký riêng cho bà Dupin, giúp bà chép bản thảo cuốn sách về vấn đề phụ nữ. Cùng với công việc này, ông còn làm nghề chép nhạc thuê để kiếm sống. Trong thời gian này, ông làm quen với D.Diderot (1713 - 1784) và cùng với D.Diderot, D’ Alambert và một số nhà tư tưởng khác biên soạn Từ điển Bách khoa toàn thư. Trong bộ Từ điển (gồm 35 tập) này, ông viết các mục về kinh tế chính trị và âm nhạc. Cũng trong thời gian này, ông còn viết một số bài báo nhằm truyền bá kiến thức khoa học, nghệ thuật, tuyên truyền tư tưởng tự do, bình đẳng, chống giáo hội và chế độ quân chủ chuyên chế đương thời.


Năm 1749, J.J.Rousseau viết luận văn Luận về khoa học và nghệ thuật để tham dự cuộc thi do Viện Hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với chủ đề “Việc chấn hưng khoa học và nghệ thuật có góp phần làm cho phong tục thuần khiết hay không”. Trong luận văn này, ông đã khẳng định sự tiến bộ của khoa học và nghệ thuật là cái mà nhân loại luôn cần đến, song tội lỗi là ở chỗ, do khoa học lấn át tôn giáo, tính nhục cảm chiếm ưu thế trong nghệ thuật và sự phóng đãng tràn ngập văn chương đã để cho con người lợi dụng khoa học, văn học và nghệ thuật thực hiện những mục đích bất chính. Với quan điểm này, ông còn cho rằng, do tầng lớp thượng lưu quý tộc chỉ biết sống xa hoa trên đầu những người dân lao động, nên khoa học, văn học và nghệ thuật càng phát triển thì xã hội quý tộc càng lún sâu vào con đường trụy lạc và những người lao động ngày càng nghèo khổ. Và, để phân biệt những nhà khoa học, nghệ thuật chân chính với những kẻ áp bức, bóc lột nhân dân, ông đã dành những trang cuối của luận văn này để ca ngợi công lao của các nhà khoa học, nhà triết học, như Bacon, Descartes, Newton. Luận văn này đã được Viện Hàn lâm khoa học Dijon trao giải thưởng. Nó đã làm cho J.J.Rousseau trở nên nổi tiếng và khiến cho D.Diderot phải thốt lên rằng, chưa bao giờ ông thấy có trường hợp nào lại thành công đến thế. Song khi được công bố vào năm 1750, nó đã gây nên nhiều phản ứng trái ngược nhau trong xã hội Pháp đương thời: giới quý tộc Pháp thì lên tiếng chê bai, thậm chí công kích, còn đông đảo quần chúng nhân dân thì hoan nghênh cả nội dung lẫn tác giả của nó(6).


Năm 1753, J.J.Rousseau viết luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng cũng lại để tham dự cuộc thi do Viện Hàn lâm khoa học Dijon tổ chức với chủ đề “Nguồn gốc của sự bất bình đẳng giữa người và người là gì? Nó có phù hợp với luật tự nhiên hay không?”. Trong luận văn này, ông đã vạch rõ nguồn gốc của sự bất bình đẳng trong xã hội là ở chế độ tư hữu tài sản. Với khẳng định này, ông kịch liệt phản đối chế độ tư hữu tài sản và lên án mạnh mẽ những kẻ quyền thế đã ra sức bênh vực và biện minh cho sự bất bình đẳng đó. Ông viết: “Những kẻ quyền thế luôn tìm mọi cách để bênh vực cho sự bất bình đẳng. Họ giải thích rằng, bất bình đẳng là một quy luật tự nhiên, cũng như bàn tay có ngón ngắn, ngón dài. Nhân dân rên rỉ dưới sự áp bức của họ thì họ lại dẫn Kinh thánh ra để bịt miệng thiên hạ”(7). Theo ông, bất bình đẳng không phải là một quy luật tự nhiên, mà là sản phẩm của xã hội loài người; nó tồn tại và phát triển từ khi xuất hiện chế độ tư hữu tài sản; rằng con người đã tạo ra sự bất bình đẳng thì con người cũng có thể xóa bỏ nó. Ông cũng đã phân biệt rõ hai loại bất bình đẳng giữa người với người. Đó là bất bình đẳng tự nhiên như người cao, kẻ thấp; người thông minh, kẻ đần độn và bất bình đẳng xã hội - bất bình đẳng do cơ chế xã hội tạo nên, như kẻ giàu, người nghèo.


Với luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng, trong những năm 1754 - 1755, J.J.Rousseau đã thực sự dấn thân vào một cuộc đấu tranh chính trị. Khi luận văn này bị loại ra khỏi cuộc thi, ông đã gửi bản thảo sang Hà Lan nhờ Nhà xuất bản Michel Ray ấn hành. Tháng 6 năm 1755, luận văn này đã ra mắt công chúng Hà Lan và ngay lập tức, nó cũng đã xuất hiện ở các hiệu sách của thủ đô Paris. Cũng ngay lập tức, luận văn này đã nhận được sự công kích mãnh liệt từ giới thượng lưu quý tộc Paris và tác giả của nó - J.J.Rousseau - cũng chịu chung số phận. Vua Louis XV, khi gọi J.J.Rousseau là “gã dân đen khốn nạn”, “tên ngoại kiều Geneve”, đã chất vấn ông với tư cách đó mà “dám trổ tài múa chữ, tự cho mình cái quyền công khai nói về tự do ngay giữa Paris ư?”. Hầu tước D’Argenson - một chính khách Pháp, bạn của các nhà Khai sáng Pháp thế kỷ XVIII, người được J.J.Rousseau ca ngợi là nhà thông thái đáng kính - lên án ông về tội đã lăng mạ, phỉ báng xã hội Pháp, bác bỏ chế độ tư hữu tài sản, phê phán lối sống của giới quý tộc thượng lưu và coi những quan niệm mà ông đưa ra là “hết sức quá đáng”. Ngay cả F.M.Voltaire (1694 - 1778) - nhà Khai sáng Pháp hàng đầu, người được coi là thần tượng của tầng lớp thị dân Pháp đương thời và là bạn cao niên của J.J.Rousseau, khi nhận được sách tặng của J.J.Rousseau đã viết thư phê phán ông và gọi triết lý của ông là thứ “triết lý của bọn khố rách áo ôm”, là lời lẽ của kẻ chuyên “xui bọn nhà nghèo cướp lại tài sản của nhà giàu” mà khi đọc nó, “người ta thấy ngứa ngáy”. Không thể chấp nhận được sự công kích ấy, J.J.Rousseau đã viết thư đáp trả và công khai phản kích lại trên báo chí với những lời lẽ còn cay độc, sâu sắc hơn nữa(8).


Tuy nhiên, trước sự công kích dữ dội của giới quý tộc thượng lưu Paris, J.J.Rousseau đã buộc phải trở về quê hương ông - Geneve. Tại đây, ông cho tái bản luận văn Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng với lời tựa mới và đề tặng nền cộng hòa Geneve. Cũng tại đây, ông đã lấy lại tư cách công dân Genene và khôi phục tín ngưỡng gốc của mình là đạo Tin lành.


Năm 1756, J.J.Rousseau lại rời bỏ Geneve để đến sống ẩn dật ở Montmorency - một vùng quê hẻo lánh ở phía Bắc Paris, trong một ngôi nhà nhỏ bỏ hoang của một ẩn sĩ đã quá cố từ lâu. Những ngày sống ở đây, ông hầu như không tiếp xúc với bạn bè và bạn bè ông, kể cả D.Diderot, cũng xa lánh ông, vì họ không đồng tình với việc ông rời bỏ Paris để sống trơ trọi, cô độc ở đây với thái độ của một con người ghét đời và kiêu kỳ. Cũng do vậy mà tình bạn giữa ông với các nhà triết học trong nhóm Bách khoa toàn thư ngày càng phai nhạt, tan vỡ.


Tháng 1 năm 1761, J.J.Rousseau cho ra mắt công chúng Pháp cuốn tiểu thuyết July hay nàng Heloise mới. Trong tiểu thuyết này, thông qua câu chuyện tình éo le, trắc trở giữa nàng July - con gái một nam tước với chàng gia sư Xanh - Prơ, ông đã đưa ra một quan niệm mới về tình yêu và hết lòng ca ngợi tình yêu chân thật, ngợi ca những con người dám đấu tranh cho tự do hôn nhân, tự do luyến ái, đồng thời lên án gay gắt kiểu cưỡng ép hôn nhân của chế độ phong kiến đương thời. Chính vì thế mà tiểu thuyết này đã được đông đảo công chúng Paris, nhất là các bậc mệnh phụ và lớp trẻ nồng nhiệt tiếp nhận.


Tháng 5 năm 1762, J.J.Rousseau tiếp tục cho ra mắt công chúng Pháp cuốn tiểu thuyết thứ hai của ông - Emile hay bàn về giáo dục. Trong tiểu thuyết này, thông qua câu chuyện hư cấu về cách dạy dỗ của anh gia sư Jean Jacques đối với cậu học trò Emile, J.J.Rousseau đã đưa ra một quan niệm mới về giáo dục: hãy để cho trẻ được phát triển theo quy luật tự nhiên, bố mẹ không nên cưỡng chế con cái theo ý mình. Quan điểm giáo dục này của ông tuy có đôi chỗ thái quá, nhưng nhìn chung, hoàn toàn trái ngược với nền giáo dục gò bó của chế độ phong kiến và Giáo hội đương thời. Cái bao trùm toàn bộ quan điểm giáo dục này là nêu cao tinh thần dân chủ và tự do, hướng sự nghiệp giáo dục vào việc đào tạo ra những công dân kiểu mới trong một xã hội mới. Chính vì lý do này mà ngay sau khi ra mắt công chúng Pháp, tiểu thuyết Emile hay bàn về giáo dục đã bị thu hồi và tác giả của nó bị truy nã.


Một tháng trước khi tiểu thuyết Emile hay bàn về giáo dục ra đời, tháng 4 năm 1762, tác phẩm quan trọng nhất, có tầm ảnh hưởng sâu rộng nhất của J.J.Rousseau - Bàn về Khế ước xã hội đã được Nhà xuất bản Michel Ray ở Amsterdam (Hà Lan) cho ra mắt độc giả.


Bàn về Khế ước xã hội
, như tác giả của nó - J.J.Rousseau đã viết: “Luận văn nhỏ này trích từ một công trình nghiên cứu rộng hơn mà trước kia tôi đã tiến hành nhưng chưa lượng sức mình, nên phải bỏ đi từ lâu. Đoạn rút ra ở đây là đoạn khá nhất mà tôi có thể yên tâm trình bày với công chúng. Những phần khác không còn nữa”(9). Mục đích của tác phẩm này, như J.J.Rousseau đã chỉ rõ, là để “tìm xem trong trật tự dân sự có chăng một số quy tắc cai trị chính đáng, vững chắc, biết đối đãi với con người như con người; và có chăng những luật pháp đúng với ý nghĩa chân thực của nó”; đồng thời “gắn liền cái mà luật pháp cho phép với cái mà lợi ích thúc đẩy phải làm, khiến cho công lý và lợi ích không tách rời nhau”(10).


Toàn bộ nội dung tác phẩm này được J.J.Rousseau chia làm bốn quyển. Quyển thứ nhất gồm 9 chương, trình bày những ý niệm chung về quá trình hình thành xã hội từ trạng thái tự nhiên chuyển sang trạng thái dân sự và những ý niệm chung về việc thành lập “Công ước xã hội”. Quyển thứ hai gồm 12 chương, chủ yếu bàn về vấn đề lập pháp, trong đó hai chương đầu bàn về ý chí chung của toàn dân, về chủ quyền tối cao và cơ quan quyền lực tối cao của một nước. Quyển thứ ba gồm 18 chương, chủ yếu bàn về vấn đề hành pháp và cơ quan hành pháp. Quyển thứ tư gồm 9 chương, chủ yếu bàn về vấn đề tư pháp và cơ quan tư pháp.


Tư tưởng chủ đạo của J.J.Rousseau trong Bàn về Khế ước xã hội cũng như trong các tác phẩm khác (“những áng văn chương”) của ông, như nhà nghiên cứu, dịch giả Hoàng Thanh Đạm - người dịch, chú thích và bình giảiBàn về Khế ước xã hội đã khẳng định, là “lý tưởng tự do, bình đẳng”, là đề cao và hết lòng “bênh vực tự do, bình đẳng”, “bảo vệ tự do, dân chủ”(11).


Thật vậy, trong Bàn về Khế ước xã hội, J.J.Rousseau đã khẳng định: “Người ta sinh ra tự do, nhưng rồi đâu đâu con người cũng sống trong xiềng xích”; “tự do là từ bản chất con người mà có. Luật đầu tiên của tự do là mỗi người phải được chăm lo sự tồn tại của mình… và do đó tự mình làm chủ lấy mình”. Rằng, “từ bỏ tự do của mình là từ bỏ phẩm chất con người, từ bỏ quyền làm người và cả nghĩa vụ làm người” và nếu cần phải tìm xem “điều tốt nhất cho tất cả mọi người” là gì, “đỉnh cao nhất của các hệ thống lập pháp” là gì thì tất cả chúng ta đều thấy “điều đó quy gọn vào hai mục tiêu: Tự do và bình đẳng”. Do vậy, mọi cộng đồng quốc gia đều cần đến một Khế ước xã hội và vấn đề cơ bản của Khế ước xã hội đó là “mỗi thành viên trong khi khép mình vào tập thể, dùng sức mạnh tập thể, vẫn được tự do đầy đủ như trước, vẫn chỉ tuân theo chính bản thân mình”(12).


Với tư tưởng đó, J.J.Rousseau đã công khai tuyên bố lập trường chính trị cấp tiến của ông - đấu tranh cho tự do, bình đẳng và dân chủ, cho nền cộng hòa và chống lại chính thể quân chủ chuyên chế. Cũng chính vì thế mà ngay sau khi ra mắt công chúng, Bàn về Khế ước xã hội của ông đã bị cấm lưu hành và bản thân ông cũng bị truy nã.


Trong bối cảnh đó, giữa tháng 6 năm 1762, ông đã rời Pais để trở về Geneve. Nhưng tại Geneve - quê hương ông, chính quyền và Giáo hội Geneve cũng ra lệnh đốt sách của ông và truy nã ông, khiến ông phải lẩn tránh khắp nơi. Năm 1765, khi ông đang ẩn náu ở Motier - một địa phương nhỏ thuộc vùng Neuchatel(Thụy Sĩ), ngôi nhà nhỏ mà ông đang sống đã thường xuyên bị những người dân quá khích trong vùng ném gạch đá theo sự xúi giục của các giáo sĩ.


Năm 1766, J.J.Rousseau được nhà triết học Anh - D.Hume tạo điều kiện cho cùng đi sang Anh. Nhưng tại Anh, ông vẫn cảm thấy bất ổn, nhất là khi ông cảm nhận thấy cách đối xử có ý đồ không tốt của D.Hume đối với ông trên bước đường lưu vong. Trong tập hồi ký Tự bạch, ông viết: “Những kẻ khốn khổ thì ở đâu cũng bị khốn khổ. Ở Pháp người ta hạ lệnh bắt giam, ở Thụy Sĩ người ta ném đá vào nhà, ở Anh người ta làm nhục. Người ta đã bán cho mình mảnh đất dung thân bằng giá quá đắt”(13). Không thể sống mãi trong tình cảnh đó, đầu năm 1768, ông trở lại Pháp ẩn náu tại một vùng gần biên giới Pháp - Italia cho đến giữa năm 1769 thì trở lại Paris, khi việc truy lùng ông không còn gay gắt như trước nữa.


Trong những năm 1772 - 1773, J.J.Rousseau tập trung viết tập Đối thoại với tiêu đề Rousseau - người phán xét Jean Jacques nhằm mục đích thanh minh để công chúng đương thời và đời sau hiểu rõ con người thực của ông, tư tưởng của ông và tâm địa độc ác của những kẻ từng làm hại ông. Năm 1766, ông bắt đầu viết tập ký sựNhững điều mơ mộng của một người lãng du cô đơn để nói lên tâm sự và những suy nghĩ của mình về tương lai. Tập ký sự này hoàn thành thì cũng là lúc ông trút hơi thở cuối cùng vào ngày 2 tháng 7 năm 1778. Thi hài ông được chôn cất tại một hòn đảo nhỏ có tên gọi Dương Liễu, nhưng vào ngày 9 tháng 11 năm 1794, nhân dân Pháp đã rước di hài của ông từ đảo Dương Liễu vào điện Pantheon - nơi chôn cất các danh nhân đã làm rạng rỡ nước Pháp.


Nhân 230 năm ngày mất của nhà tư tưởng vĩ đại, nhà triết học Khai sáng Pháp - J.J.Rousseau, nhắc lại mấy nét về cuộc đời và sự nghiệp sáng tạo lý luận của ông để thêm một lần nữa, chúng ta hiểu vì sao, ông được nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới tôn vinh, ngợi ca. Vì sao, tư tưởng của ông cùng với tư tưởng của các nhà triết học Khai sáng Pháp, như Montesquieu, Vontaire, Diderot lại có ảnh hưởng sâu rộng đến tiến trình của cuộc cách mạng dân chủ tư sản Pháp thế kỷ XVIII (1789 - 1794). Vì sao, tác phẩm Emily hay bàn về giáo dục của ông lại được coi là tác phẩm hay nhất về giáo dục, kể từ tác phẩm Nền cộng hoà của Pheđơ và cuốn hút I.Kant đến mức, khi đọc tác phẩm này, ông quên mất cuộc đi dạo bộ đều đặn hàng ngày của mình. Thậm chí tác phẩm này còn khiến I.Kant phải thốt lên rằng, D.Hume là người đánh thức ông khỏi giấc ngủ giáo điều trong lý thuyết về tri thức, còn J.J.Rousseau chính là người đã chỉ đường cho ông tới một lý thuyết mới về đạo đức học và tin rằng J.J.Rousseau là một Newton trong thế giới đạo đức học. I.Kant ngưỡng mộ J.J.Rousseau đến mức treo ảnh ông trong phòng làm việc của mình. Vì sao, July hay nàng Heloise mới được thừa nhận là cuốn tiểu thuyết lãng mạn hay nhất thế kỷ XVIII. Vì sao, Về nguồn gốc của sự bất bình đẳng vàBàn về tinh thần pháp luật của ông lại có ảnh hưởng độc đáo và sâu sắc đến triết học chính trị hơn bất cứ tác phẩm nào khác đương thời. Và, trên hết, vì sao Bàn về Khế ước xã hội - tác phẩm quan trọng nhất của ông lại trở thành di sản lý luận cho nhiều chính khách, nhiều người thuộc thế hệ sau ông và cho cả các chính khách, những người thuộc thế hệ chúng ta hôm nay, nhất là vì sao, tác phẩm này cùng với Tinh thần pháp luật của Montesquieu lại được coi là bộ đôi khai sáng về quan điểm pháp chế, vạch ra định hướng xây dựng nhà nước pháp quyền và xã hội công dân ở nhiều nước trên thế giới và giờ đây, vẫn còn có giá trị gợi mở cho chúng ta trong công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và xã hội dân sự ở Việt Nam.


(1`) Xem: Rôdentan (Chủ biên). Từ điển triết học. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1986, tr. 491.

(2) Dẫn theo: Samuel Enoch Stumpf. Rousseau: Con người lãng mạn giữa thời đại lý trí. Trong: Lịch sử triết học và các luận đề. Nxb Lao động, Hà Nội, 2004, tr.239.

(3) Xem: Nguyễn Mạnh Tường. Lý luận giáo dục châu Âu. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1994, tr. 418.

(4) Dẫn theo: Samuel Enoch Stumpf. Sđd., tr.235.

(5) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu (Biên soạn). Giăng Giắc Rútxô. Nxb Văn học, Hà Nội, 1978, tr. 155.

(6) Xem: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 172.

(7) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 206.

(8) Xem: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 218 - 223.

(9) J.J.Rousseau: Bàn về Khế ước xã hội (Hoàng Thanh Đạm dịch thuật, chú thích và bình giải). Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội, 2004, tr. 49.

(10) J.J.Rousseau. Sđd., tr. 51.

(11) Xem: Hoàng Thanh Đạm. Jean Jacques Rousseau: cuộc đời và tác phẩm. Trong: J.J.Rousseau. Bàn về Khế ước xã hội. Sđd., tr. 25.

(12) J.J.Rousseau. Sđd., tr. 52, 53, 59, 66 - 67, 115.
(13) Dẫn theo: Phùng Văn Tửu. Sđd., tr. 365.

Theo maxreading.com