Khoa Ngữ Văn
  
Trang chủ
Văn học Việt Nam


NGƯỜI KỂ CHUYỆN NGÔI THỨ NHẤT TRONG TRUYỆN NGẮN NGUYỄN HUY THIỆP PDF. In Email
Thứ năm, 22 Tháng 12 2011 16:07

Phạm Thị Thùy Trang

 

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Nguyễn Huy Thiệp là một tên tuổi nổi bật trên văn đàn Việt Nam trong giai đoạn đổi mới sau kháng chiến chống Mỹ. Mảng sáng tác nổi bật nhất và thu hút được sự quan tâm rộng rãi nhất của nhà văn chính là truyện ngắn.

Nói đến cái hay của truyện Nguyễn Huy Thiệp là nói đến cái hay của cách kể chuyện, hay nói đúng hơn là cách xây dựng hình tượng người kể chuyện, loại hình tượng không thể thiếu của bất kỳ một tác phẩm tự sự nào. Đa phần người kể chuyện trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp xuất hiện ở ngôi thứ nhất. Các tác phẩm kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Huy Thiệp không lấy tình tiết làm trọng mà chú ý thể hiện đời sống nội tâm của các nhân vật. Sức lay động của các thiên truyện đến từ cái nhìn bên trong được thể hiện qua giọng điệu kể chuyện trầm buồn, suy tư và từng trải của người kể.

Trong số các truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất của Nguyễn Huy Thiệp thì chiếm phần lớn là những truyện kể theo điểm nhìn đơn tuyến (18 truyện). Ở số ít truyện còn lại, câu chuyện được kể theo điểm nhìn đa tuyến.

2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU

2.1 Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất với điểm nhìn đơn tuyến

Trong các truyện kể này, tác giả chọn một nhân vật xưng “tôi” để kể chuyện. Nhân vật “tôi” ấy có thể đóng vai trò người dẫn chuyện trong tác phẩm hoặc một phần tử trong hệ thống nhân vật tham gia vào các tình huống của truyện. Bản thân hình tượng “tôi” – người kể chuyện còn có ý nghĩa nhân đôi. “Tôi” vừa là người kể chuyện về các nhân vật khác, đồng thời là đối tượng nhận thức trở lại của chính mình. Các nhân vật xuất hiện trong câu chuyện của nhân vật “tôi” cũng được thể hiện trong sự kết hợp giữa việc miêu tả hành động, lời nói với những diễn biến tâm lý phức tạp bên trong của nhân vật. Trong tác phẩm, “tôi” – người kể chuyện thường có sự trao đổi điểm nhìn với các nhân vật khác trong khi kể chuyện, đồng thời xuất hiện hiện tượng một sự vật, sự việc được nhìn nhận từ nhiều điểm nhìn khác nhau từ các nhân vật trong truyện.

Để có được cái nhìn cụ thể hơn về loại hình tượng người kể chuyện này, chúng ta thử đi vào tìm hiểu một số truyện ngắn tiêu biểu của Nguyễn Huy Thiệp.

Các truyện Kiếm sắc, Phẩm tiết, Mưa Nhã Nam, Cún, Trương Chi

Cả năm truyện ngắn đều được kể bởi một người kể chuyện xưng “tôi”. Nhưng người kể chuyện này chỉ đóng vai trò người dẫn chuyện chứ không tham gia vào các tình huống, sự kiện trong truyện. Anh ta đóng vai trò là người quan sát, cảm nhận và kể lại những điều nghe được, thấy được dựa vào điểm nhìn cá nhân của mình. Mô típ dẫn chuyện của cả năm trường hợp này là: người kể chuyện xưng “tôi” được nghe kể về cuộc đời của các nhân vật trong truyện bởi một nhân chứng lịch sử có lai lịch cụ thể, được cung cấp những tư liệu mà theo anh ta là có căn cứ thực tế, rồi sau đó sắp xếp, dàn dựng lại để tạo thành câu chuyện hiện tại mà độc giả tiếp cận. Điều đó cho thấy, người kể chuyện xưng “tôi” trong khi luôn cố ý gợi cho người đọc cảm giác tin tưởng rằng, những điều anh ta kể ra ở đây là có thật, đồng thời gián tiếp thừa nhận rằng những câu chuyện được kể lại xuất phát từ cảm thụ cá nhân của anh ta, dựa vào điểm nhìn hạn chế của anh ta để kể.

Lối dẫn chuyện này có thể gây nhầm lẫn cho người đọc trong khi tiếp nhận tác phẩm, nhất là các tác phẩm lấy cảm hứng từ những nhân vật có thật trong lịch sử mà cách hiểu về cuộc đời và nhân cách đã được “đóng khung” trong cách hiểu của người đọc (Kiếm sắc, Phẩm Tiết, Mưa Nhã Nam), rằng đây không phải là những sáng tác hư cấu văn học mà là những truyện ghi chép lại những hiện thực khách quan có thật. Nhưng sự thật hoàn toàn ngược lại. Những câu chuyện được kể ở năm tác phẩm này đều là những truyện kể mang tính chất hư cấu, là những hiện thực đã được lọc qua lăng kính sáng tạo chủ quan của tác giả. Ngay cả nhân vật “tôi” dẫn chuyện cũng chỉ là một hình tượng hư cấu, nó có thể chứa đựng những định hướng nghệ thuật và quan niệm cá nhân của tác giả về đời sống và con người nhưng bản thân hình tượng này lại thuộc về thế giới hư cấu của tác phẩm.

Tuy nhiên, cách kể của người kể chuyện xưng “tôi” ở các tác phẩm trên không giống nhau. Trong hai truyện ngắn Kiếm sắcPhẩm tiết, người kể chuyện sau khi giới thiệu hoàn cảnh trần thuật của mình thì đóng vai trò là người kể chuyện từ điểm nhìn bên ngoài trong câu chuyện tiếp theo sau đó. Tính cách, phẩm chất của các nhân vật hiện lên thông qua sự miêu tả khách quan ngoại hình, hành động, lời nói trong mối quan hệ với các nhân vật khác. Câu chuyện được kể ở thì hiện tại, không xuất hiện những đoạn thể hiện cảm xúc, tâm trạng hay sự hồi cố của nhân vật. Lời kể chủ yếu là lời tả. Còn ở ba truyện ngắn còn lại, “tôi” – người kể chuyện lại dựa vào điểm nhìn bên trong của nhân vật để trần thuật. Hình ảnh của nhân vật được thể hiện chủ yếu qua thế giới nội tâm của chúng. Lời người kể thường xuyên xen lẫn lời nội tâm của nhân vật.

Các truyện Chảy đi sông ơi, Con gái thủy thần, Quan âm chỉ lộ, Những người thợ xẻ, Tướng về hưu

“Tôi” trong các truyện ngắn này vừa là người kể chuyện, vừa là một nhân vật trong thế giới tác phẩm, nhưng mức độ tham dự của anh ta ở từng tác phẩm có sự khác nhau. Anh ta không chỉ là người chứng kiến mà còn là người trong cuộc, trực tiếp tham dự vào các tình tiết của truyện. Anh ta có thể không phải là một nhân vật chính nhưng là một hình tượng nghệ thuật độc lập, có thể được nhận diện rõ ràng trong tác phẩm. Xét trên một phương diện nào đó, người kể chuyện trong tác phẩm còn có vai trò là “chất xúc tác”, góp phần làm bộc lộ tính cách của các nhân vật trong truyện. Ngược lại, các nhân vật kia cũng có vai trò tích cực thúc đẩy quá trình nhận thức và tự ý thức của nhân vật “tôi”. Bên cạnh đó, khi truyện được kể từ điểm nhìn của người kể chuyện xưng “tôi” thì người kể có điều kiện tự do bộc lộ cá nhân, biểu đạt tình cảm chủ quan. Khi đó, cái “tôi” một mặt là cái “tôi” khách quan, mặt khác cũng là cái “tôi” chủ quan, cái “tôi” nội tâm, cái “tôi” tâm lý. Một mặt anh ta hướng ra thế giới của các nhân vật, sự kiện để trần thuật, mặt khác hướng vào thế giới nội tâm của mình để bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm bản thân.

Để kể những câu chuyện của mình, người kể chuyện trong năm tác phẩm trên không chỉ dựa vào điểm nhìn chủ quan của bản thân. Hình thức tự sự trong các truyện kể khá đa dạng. Người kể có khi đứng ra kể chuyện, có khi trao quyền trần thuật lại cho các nhân vật khác, để họ tự nhận xét về nhau; có khi một sự kiện, hiện tượng được nhìn nhận từ các góc nhìn khác nhau của nhiều nhân vật; “tôi” cũng có khi dựa vào điểm nhìn của mình, có khi lại dựa vào điểm nhìn của người khác để kể chuyện. Sự đan xen nhiều hình thức tự sự dựa trên các kết cấu điểm nhìn khác nhau tạo cho các tác phẩm nhiều tầng ý nghĩa phong phú, đa dạng và sâu sắc. Người đọc không buộc phải hướng theo một quan điểm trần thuật duy nhất mà cùng lúc được đối thoại với nhiều nhân vật. Điều đó làm tăng khả năng khái quát hiện thực của truyện ngắn, đồng thời dành nhiều sự chủ động suy nghĩ hơn cho độc giả khi đọc tác phẩm.

Nhân vật chính trong các truyện ngắn này đều là những người đàn ông. Họ đều cảm thấy lạc loài, cô đơn và bế tắc trước hiện thực đời sống biến hóa, phức tạp. Nhưng họ không bao giờ ngừng hoạt động, ngừng khám phá những giới hạn không gian mới giải thoát mình tình trạng tù đọng, bất lực. Tuy vậy, những kết thúc dành cho họ lại thường là bi kịch. Khi tái hiện lại những quãng đời của các nhân vật này, điểm nhìn của người kể chuyện thường di chuyển theo những chiều kích không gian rộng lớn trong những khoảng thời gian tương đối dài. Trong đó, những biến cố, những sự kiện xảy ra trong cuộc đời nhân vật được liệt kê ở mức độ khá dày bên cạnh những chi tiết độc thoại hay miêu tả nội tâm của nhân vật. Người kể chuyện có khi kể về một người khác, có khi kể về chính mình. Ở những truyện mà “tôi” vừa là người kể chuyện, vừa là nhân vật chính, cái “tôi” nội tâm, cái “tôi” tâm lý chiếm phần ưu trội hơn cái “tôi” khách quan.

2.2 Người kể chuyện trong các truyện ngắn kể theo ngôi thứ nhất với điểm nhìn đa tuyến

Tự sự ngôi thứ nhất theo điểm nhìn đa tuyến là hình thức tự sự mà ở đó điểm nhìn có sự dịch chuyển trên hai hay nhiều người kể chuyện xưng “tôi”. Những cái “tôi” này không phải là sự phân thân của một cái “tôi” nào đó. Chúng tồn tại với tư cách là những chủ thể độc lập, thể hiện rõ sự mâu thuẫn nội tại trong ý thức. Nói cách khác, mỗi cái tôi được miêu tả như một ý thức. Có trường hợp, trong truyện ngắn xuất hiện hai người kể chuyện xưng “tôi”. Trong đó, một chủ thể giữa vai trò người kể chuyện chính, còn chủ thể kia giữ vai trò của người dẫn truyện, anh ta đóng vai một người được nghe kể lại câu chuyện từ người kể chuyện xưng “tôi” thứ nhất và chỉ trần thuật lại một cách khách quan những gì nghe được. Cũng có trường hợp, một truyện kể xuất hiện nhiều nhân vật – người kể chuyện kể những câu chuyện khác nhau. Mỗi người kể chuyện là một chủ thể nhận thức mang điểm nhìn và quan niệm khác nhau về hiện thực. Song những câu chuyện nhỏ ấy đều được sắp xếp theo định hướng của “tôi” – người kể chuyện nhằm làm nổi bật nội dung, tư tưởng của một câu chuyện lớn hơn bao trùm các mẩu chuyện đó. Điểm nhìn bao quát vẫn thuộc về “tôi” – người kể chuyện, nhưng anh ta không áp đặt điểm nhìn của mình lên những người kể chuyện khác, anh ta luôn cố ý tạo ra mối quan hệ bình đẳng giữa các câu chuyện được kể trong tác phẩm. Trong các tác phẩm này thường có từ hai người kể chuyện trở lên, những câu chuyện được sắp xếp xen kẽ, tạo ra khả năng đối thoại to lớn giữa các ý thức với nhau.

Thuộc về hình thức tự sự này là các truyện: Những bài học nông thôn, Chú Hoạt tôi, Thổ cẩm, Vàng lửa, Mưa.

Những bài học nông thôn là một truyện ngắn xúc động và sâu sắc lấy đề tài đời sống nông thôn của Nguyễn Huy Thiệp. Người kể chuyện xưng “tôi” giữ vai trò là người kể chuyện chính, những sự kiện, hiện tượng trong truyện đều được nhìn theo điểm nhìn và cảm xúc của “tôi”. Nói cách khác, truyện được kể chủ yếu từ góc độ chủ quan của người kể chuyện. Đồng thời anh ta cũng là nhân vật chính tham gia vào mọi sự kiện, diễn biến xảy ra trong tác phẩm. Thông qua mối quan hệ với các nhân vật khác, nhân vật “tôi” tìm kiếm được những chất liệu đời sống để xây dựng nên câu chuyện của mình. Ngoài câu chuyện của “tôi”, xen kẽ trong mạch truyện là những câu chuyện do các nhân vật chị Hiên, bà Lâm và anh giáo Triệu lần lượt thuật lại. Mỗi câu chuyện gắn bó với những cảm xúc, ký ức, quan điểm riêng của mỗi nhân vật về cuộc đời, về lẽ sống và cả những chiêm nghiệm triết lý riêng tư. Trong quá trình trần thuật này, người kể chuyện xưng “tôi” chỉ đóng vai trò người quan sát, lắng nghe và tường thuật lại, anh ta không can dự vào ý thức của chủ thể đang kể chuyện. Như vậy, trong lòng một câu chuyện lớn của “tôi” – người kể chuyện là những câu chuyện nhỏ độc lập nhưng xét trong tổng thể tác phẩm, chúng vẫn có mối liên quan chặt chẽ với câu chuyện lớn về mặt tư tưởng và định hướng nghệ thuật. Vì xét cho cùng, điểm nhìn bao quát và vai trò kể chuyện chính vẫn thuộc về chủ thể xưng “tôi”.

Hai truyện ngắn Chú Hoạt tôiThổ cẩm đều xuất hiện hai người kể chuyện xưng “tôi”. Người kể chuyện xưng “tôi” thứ nhất giữ vai trò là người kể chuyện trong phần chính của truyện ngắn, còn người kể chuyện xưng “tôi” thứ hai xuất hiện ở vị trí người lắng nghe câu chuyện của “tôi” trên kia và tường thuật lại. Người kể chuyện thứ nhất đồng thời cũng là một nhân vật trong truyện, anh ta là người kể chuyện duy nhất trong toàn bộ phần chính của câu chuyện. Mọi sự việc, diễn biến trong đó đều được quan sát và kể lại từ điểm nhìn chủ quan của anh ta. Còn người kể chuyện thứ hai hoàn toàn đứng ngoài câu chuyện được kể lại, anh ta chỉ tường thuật những gì được nghe kể mà thôi. Thực chất, anh ta là người dẫn chuyện nhưng vì xuất hiện ở cuối tác phẩm nên vai trò dẫn dắt của anh ta không thể hiện rõ ràng, anh ta giống như một thính giả thụ động hơn. Một người đang đối thoại với người kể chuyện chính. Hình thức này mang lại cho người đọc cảm giác rằng những nhân vật và câu chuyện trên kia là có thực, mang tính khách quan cao.

Hai truyện ngắn Vàng lửaMưa đều có kết cấu truyện lồng truyện. Trong truyện ngắn Vàng lửa là sự đan xen giữa ba câu chuyện được kể bởi ba người kể khác nhau, còn trong Mưa, hai câu chuyện của hai người kể riêng biệt cũng khéo léo hòa quyện vào nhau suốt mạch truyện.

Người kể chuyện xưng “tôi” đóng vai trò người kể chuyện ngang hàng với những người kể còn lại. Trong Vàng lửa, người kể xưng “tôi” không đồng thời là nhân vật trong truyện, anh ta kể một câu chuyện lớn và câu chuyện này được thêu dệt nên bởi hai câu chuyện nhỏ khác đan cài bên trong. Các nhân vật kể chuyện đều là những chủ thể độc lập và toàn quyền với câu chuyện của mình, “tôi” – người kể chuyện hoàn toàn đứng ngoài. Nhưng dù là hai câu chuyện nhỏ riêng biệt song chúng vẫn nằm trong mạch tư tưởng chủ đề chung của tác phẩm, cùng phục vụ cho một định hướng nghệ thuật thống nhất của người kể chuyện xưng “tôi”. Ở Mưa, bên cạnh câu chuyện giữa hai nhân vật “anh” và em” là câu chuyện của cô gái tên M. kể cho người bạn tên N. của mình nghe. Câu chuyện thứ hai được lồng vào trong mạch kể của câu chuyện thứ nhất theo dòng tự sự của người kể chuyện chính là nhân vật xưng “anh”. Xét về mặt kết cấu thì đây cũng là hai câu chuyện độc lập được sắp xếp xen kẽ nhau theo dụng ý nghệ thuật của người kể chuyện, nhưng cũng như Vàng lửa, chúng cùng hướng đến một nội dung tư tưởng theo quan điểm của người kể chuyện chính.

3. KẾT LUẬN

Nhìn chung, hình thức tự sự ngôi thứ nhất ở các truyện ngắn này khá đa dạng. Có khi trong truyện chỉ xuất hiện một người kể chuyện xưng “tôi”, có khi xuất hiện từ hai cái “tôi” kể chuyện trở nên. Trong nhiều trường hợp, người kể chuyện còn trao điểm nhìn trần thuật lại cho nhân vật và kể chuyện từ góc nhìn của nhân vật này. Hơn nữa, các điểm nhìn ở “tôi” – người kể chuyện không cố định mà luôn có sự di động. Sự kết hợp nhiều hình thức tự sự đa dạng đã đem lại cho tác phẩm cái nhìn đa chiều hấp dẫn, đồng thời mở rộng tầm khái quát hiện thực của truyện ngắn. Tự sự ngôi thứ nhất giúp người kể chuyện thể hiện được tính cá thể cao trong lời kể và các kể chuyện của mình. Cái “tôi” của người kể chuyện có khả năng bộc lộ chiều sâu trong nhận thức và thể hiện sâu sắc quá trình tự vấn của bản thân. Sự tương tác, đối thoại giữa những ý thức chủ thể độc lập góp phần tạo nên tiếng nói đa thanh, đa giọng điệu trong tác phẩm.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

[1] Đỗ Hồng Hạnh (tuyển chọn), 2005. Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nxb. Văn hóa Sài Gòn, Tp.Hồ Chí Minh.

[2] Phạm Xuân Nguyên, 2001. Đi tìm Nguyễn Huy Thiệp. Nxb. Văn hóa thông tin, Hà Nội.

[3] Nguyễn Huy Thiệp, 2006. Giăng lưới bắt chim. Nxb. Hội nhà văn, Hà Nội.

[4] Trần Đình Sử (chủ biên), 2003, Tự sự học – Một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb. Đại học sư phạm, Hà Nội.

 
VĂN HỌC NAM BỘ 1932-1945 MỘT CÁI NHÌN TOÀN CẢNH PDF. In Email
Thứ năm, 22 Tháng 12 2011 15:41

ĐOÀN LÊ GIANG

1. ĐẶT VẤN ĐỀ

Văn học quốc ngữ Nam Bộ hình thành từ cuối TK.XIX, cho đến đầu thế kỷ XX vùng văn học này đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, trở thành bộ phận tiên phong của văn học dân tộc với hàng chục mấy tác gia, hàng trăm bộ tiểu thuyết ngay từ khi các miền khác ở đất nước chưa biết “tiểu thuyết” là gì. Những tên tuổi lớn của văn học quốc ngữ Nam Bộ là: Trương Vĩnh Ký – nhà văn hóa, người viết ký sự quốc ngữ đầu tiên;  Nguyễn Trọng Quản – nhà tiểu thuyết quốc ngữ đầu tiên; Trương Minh Ký – nhà văn, dịch giả văn học Pháp đầu tiên; Huỳnh Tịnh Của – nhà văn ngữ văn học quốc ngữ tiên phong; Trần Chánh Chiếu - nhà văn Minh tân; Lương Khắc Ninh – nhà thơ nhà báo duy tân; Hồ Biểu Chánh - nhà tiểu thuyết xã hội-đạo lý cự phách; rồi Trương Duy Toản- nhà văn dã sử võ hiệp; Lê Hoằng Mưu – nhà tiểu thuyết tiên phong và táo bạo; Nguyễn Chánh Sắc- nhà tiểu thuyết võ hiệp, nhà dịch thuật truyện Tàu trứ danh v.v. Những nhà văn ấy và hàng chục nhà văn khác nữa với hàng mấy trăm tác phẩm đã xây dựng nền móng đầu tiên, từ đó mới phát triển ra miền Bắc, miền Trung, tạo thành tòa lâu đài của văn học TK.XX, khẳng định sức sống mãnh liệt của dân tộc.

Đọc thêm...
 
Văn xuôi các dân tộc thiểu số Việt Nam trên hành trình hội nhập PDF. In Email
Thứ hai, 19 Tháng 12 2011 17:00

PGS.TS. Đào Thủy Nguyên – TS. Dương Thu Hằng


1. Đôi điều về vấn đề trung tâm và ngoại vi trong nghiên cứu văn học

Trung tâm hay ngoại vi là vấn đề được đặt ra trong khá nhiều lĩnh vực từ văn hóa, địa lý, kinh tế, chính trị…đến văn học. Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu đã vận dụng lí thuyết này trong các lĩnh vực nghiên cứu chuyên sâu của mình và đã đạt được những kết quả nhất định.

Thực ra, thuyết "trung tâm" trong nghiên cứu văn hoá đã được các nhà nghiên cứu thuộc trường phái "Truyền bá luận" (diffutionisim) Tây Âu đưa ra từ cuối thế kỉ XIX đầu thế kỷ XX. Các đại diện tiêu biểu của trường phái này là các nhà nghiên cứu Đức - Áo, như L. Frobenius, F.Ratsel (1), F. Grabner (2), W. Schmidt (3). Họ cho rằng, các sáng tạo văn hoá của nhân loại bao giờ cũng xuất phát điểm từ một nơi, thuộc một cộng đồng nào đó, rồi sau đó lan truyền đi các nơi khác và chính sự lan truyền ấy tạo nên động lực của sự phát triển văn hoá nói riêng và của xã hội nói chung. Điều đó cũng có nghĩa là, đối với một số cộng đồng, sự tiến bộ văn hoá chủ yếu do vay mượn chứ không phải do sự sáng tạo độc lập của cộng đồng ấy (4).

Đọc thêm...
 
HUYỀN THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN ĐƯƠNG ĐẠI VIỆT NAM PDF. In Email
Thứ hai, 19 Tháng 12 2011 16:57

Thạc sĩ, NCS. Trần Viết Thiện


1. Sự thâm nhập của huyền thoại vào văn học viết là một hiện tượng lạ. Sự thâm nhập của huyền thoại vào truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay lại càng lạ hơn. Từ sau 1975, nhất là từ sau đổi mới, chúng ta chứng kiến sự tái xuất đầy ấn tượng của huyền thoại trong đời sống văn học nghệ thuật: âm nhạc, điện ảnh, văn học… Đặc biệt, huyền thoại trở thành một tố chất thể loại vừa mới mẻ vừa mạnh mẽ trong truyện ngắn giai đoạn này. Đi sâu vào đời sống thể loại, chúng ta sẽ thấy: huyền thoại không phải chỉ trở lại ở một vài hiện tượng riêng lẻ, ngược lại, những sáng tác huyền thoại đã hình thành một dòng truyện ngắn: truyện ngắn - huyền thoại. Huyền thoại thực sự đã tạo nên những hình thể truyện ngắn mới ở Việt Nam. Một số nhà nghiên cứu cho rằng, đó là kết quả sự ảnh hưởng của truyện ngắn huyền ảo (Magical short stories), một trong ba xu hướng truyện ngắn phát triển mạnh của truyện ngắn hậu hiện đại thế giới. Thực ra, truyện ngắn huyền thoại Việt Nam được hình thành từ một quá trình tương tác vừa đa dạng vừa nhiều chiều. Đó là sự trở về với những huyền thoại, những mẫu cổ trong vốn liếng folklore dồi dào của dân tộc; đó là sự thẩm thấu truyền thống truyền kì trong văn học Việt Nam qua một chu kì phát triển dích dắc và mang tính tiệm tiến; và đó còn là sự kế thừa, tiếp thu thành tựu của văn học huyền thoại thế giới. Sự tương tác với yếu tố nội sinh và ngoại sinh đã tạo nên gương mặt vừa phong phú vừa độc đáo của truyện ngắn huyền thoại Việt Nam sau đổi mới.

Đọc thêm...
 
BÀN GÓP VỀ TIẾP THỤ VÀ ĐỔI MỚI TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC PDF. In Email
Thứ hai, 19 Tháng 12 2011 16:50

TS. Phạm Tuấn Vũ


Một trong những thành tựu của lý luận văn học cuối thế kỷ XX là gọi ra đích danh thuộc tính quan trọng nhất của văn bản văn chương là liên văn bản. Lịch sử từng bước vô thức và có ý thức tiếp cận thuộc tính này ở phương Đông và phương Tây đều có thể tính bằng hàng chục thế kỷ. Việc nhận thức đạt đến hệ thống, có chiều sâu và tìm được cách định danh thích đáng như vậy - mượn cách diễn đạt của cố thi sĩ Chế Lan Viên - là “giờ của số thành”.

Đã thừa nhận thuộc tính này của văn bản thì cũng đương nhiên phải thấy rằng khi sáng tạo ra chúng, người ta luôn đứng ở lằn ranh giữa tiếp thụ những thành tựu hữu quan và đồng thời phải đổi mới những thành quả đó. Đây là một song đề vừa tất yếu vừa có ý thức. Chỉ những ai có năng lực hiện thực hóa được những điều này mới xứng danh tác giả.

Dù không phải nhà nghiên cứu văn học, đọc Tiễn đăng tân thoại của Cù Hựu, tự là Tông Cát (1347-1433) nhà văn Trung Quốc và Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ nhà văn Việt Nam thế kỷ XVI, người ta cũng thấy sự gần gũi giữa chúng. Sắp xếp hai trước tác này theo trình tự thời gian, có thể nói ngay được là Nguyễn Dữ đã tiếp thụ nhiều ở nhà văn phương Bắc. Và dù không phải nhà nghiên cứu chuyên sâu cũng có thể sắp được những cặp truyện tương ứng.

Đọc thêm...
 
«Bắt đầuLùi12345678Tiếp theoCuối»

Trang 5 trong tổng số 8

THÔNG TIN HOẠT ĐỘNG

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: "RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/ UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA" (TRẦN QUỐC TOÀN)

THẦY GIÁO BÙI MẠNH NHỊ: “RÓT CHO ĐẦY VĨNH CỬU/UỐNG CHO CẠN THOÁNG QUA” Trần Quốc Toàn Phó giáo sư - Tiến sĩ khoa học Bùi Mạnh Nhị từng có trang giáo...

Thông báo về việc hỗ trợ khai thác nguồn học liệu trực tuyến trong thời gian giãn cách

THÔNG BÁO V/V HỖ TRỢ KHAI THÁC NGUỒN HỌC LIỆU TRỰC TUYẾN TRONG THỜI GIAN GIÃN CÁCH   Nhằm hỗ trợ Quý Thầy/Cô, các Anh/Chị sinh viên, học viên, nghiên cứu...
 

Học vụ

Thông báo V/v Thực hiện chính sách hỗ trợ tiền đóng học phí, chi phí sinh hoạt đối với sinh viên sư phạm

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ TIỀN ĐÓNG HỌC PHÍ, CHI PHÍ SINH HOẠT ĐỐI VỚI SINH VIÊN SƯ PHẠM (ÁP DỤNG TỪ KHOÁ TUYỂN SINH NĂM HỌC 2021 - 2022,...

Thông báo V/v Thực hiện chính sách miễn, giảm học phí cho sinh viên hệ chính quy Năm học 2021-2022

THÔNG BÁO V/V THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH MIỄN, GIẢM HỌC PHÍ CHO SINH VIÊN HỆ CHÍNH QUY NĂM HỌC 2021 - 2022     ...
 

Đoàn TN - Hội SV

THÔNG BÁO VỀ HỘI THI NGHIỆP VỤ SƯ PHẠM CỦA SINH VIÊN KHOA NGỮ VĂN TRƯỜNG ĐHSP TP. HCM NĂM HỌC 2008 - 2009

1/ Mục đích ý nghĩa: Trường ĐHSP là trường có nhiệm vụ hướng nghiệp dạy nghề rất rõ ràng. Đồng thời với việc được trang bị kiến thức về khoa...

 BÀI MỚI NHẤT