Bảo đảm quyền các bên trong giải quyết tố cáo Print
Friday, 23 March 2012 11:34

Luật Tố cáo đã được Quốc hội thông qua gồm 8 chương 50 điều, có nhiều nội dung mới liên quan đến quyền của các bên trong tố cáo và giải quyết tố cáo và là những quyền mới so với quy định tại Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998.

Việc quy định bổ sung, làm rõ một số quyền đòi hỏi phải hoàn thiện những thủ tục pháp lý để bảo đảm các quyền này của các bên. Những thủ tục đó cần thiết phải được thể hiện chi tiết trong các văn bản hướng dẫn thi hành.

Có ba nhóm chủ thể trực tiếp trong tố cáo và giải quyết tố cáo là người tố cáo, người bị tố cáo và người giải quyết tố cáo. Quyền và nghĩa vụ của các chủ thể này đã được quy định trong Luật Khiếu nại, tố cáo năm 1998. Tuy nhiên, các quy định đó chưa đầy đủ. Luật Tố cáo quy định đầy đủ hơn về quyền của các chủ thể này.

i. QUYỀN CỦA NGƯỜI TỐ CÁO

Khoản 1 Điều 9 Luật Tố cáo quy định người tố cáo có các quyền:

+ Gửi đơn hoặc trực tiếp tố cáo với cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền theo quy định của pháp luật;

+ Được giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và các thông tin cá nhân khác của mình;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo;

+ Tố cáo tiếp khi có căn cứ cho rằng việc giải quyết tố cáo của cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền không đúng pháp luật hoặc quá thời hạn quy định mà tố cáo không được giải quyết;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền bảo vệ khi bị đe dọa, trả thù, trù dập;

+ Được khen thưởng theo quy định của pháp luật.

Như vậy, so với Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành, Luật Tố cáo đã quy định bổ sung người tố cáo có thêm các quyền như: quy định giữ bí mật họ, tên, địa chỉ, bút tích và thông tin cá nhân khá là quyền đương nhiên của người tố cáo và cá cơ quan nhà nước có trách nhiệm thực hiện các biện pháp bảo vệ. Bên cạnh quy định người tố cáo được quyền yêu cầu thông báo kết quả giải quyết tố cáo thì người tố cáo còn được yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền thông báo về việc thụ lý giải quyết tố cáo, thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết; được tố cáo tiếp; được khen thưởng theo quy định của pháp luật.

II. QUYỀN CỦA NGƯỜI BỊ TỐ CÁO

Khoản 1 Điều 10 Luật Tố cáo quy định, người bị tố cáo có các quyền:

+ Được thông báo về nội dung tố cáo;

+ Đưa ra chứng cứ để chứng minh nội dung tố cáo là không đúng sự thật;

+ Nhận thông báo kết luận nội dung tố cáo;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý tố cáo sai sự thật, người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật;

+ Được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.

So với Luật Khiếu nại, tố cáo, Luật Tố cáo bổ sung quy định người bị tố cáo có quyền được nhận thông báo kết quả giải quyết tố cáo; yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý người cố ý giải quyết tố cáo trái pháp luật; được xin lỗi, cải chính công khai do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra.

III. QUYỀN CỦA NGƯỜI GIẢI QUYẾT TỐ CÁO

Luật Khiếu nại, tố cáo hiện hành không có quy định về quyền, nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo nói chung mà chỉ có quy định quyền và nghĩa vụ của người giải quyết tố cáo trong quá trính xác minh việc tố cáo. Để có cơ sở pháp lý cho người giải quyết tố cáo trong quá tình thực hiện nhiệm vụ, công vụ, Điều 11 Luật Tố cáo đã quy định về quyền và nghĩa vụ vủa người giải quyết tố cáo. Theo đó, người giải quyết tố cáo có các quyền sau:

+ Yêu cầu người tố cáo cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;

+ Yêu cầu người bị tố cáo giải trình bằng văn bản về hành vi bị tố cáo;

+ Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến nội dung tố cáo;

+ Tiến hành các biện pháp kiểm tra, xác minh, thu thập chứng cứ để giải quyết tố cáo theo quy định của pháp luật; áp dụng các biện pháp theo thẩm quyền để ngăn chặn, chấm dứt hành vi vi phạm pháp luật;

+ Kết luận về nội dung tố cáo;

+ Quyết định xử lý theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.

Với những quy định bổ sung như đã nêu, để bảo đảm các quyền của người tố cáo, người bị tố cáo, người giải quyết tố cáo được thực hiện, các quy định liên quan thủ tục giải quyết tố cáo. Đây chính là thủ tục pháp lý bảo đảm quyền của các bên trong tố cáo và giải quyết tố cáo.

Thủ tục này được thể hiện trong các hoạt động tiếp nhận, xác minh, kết luận về nội dung tố cáo và việc xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo. Trình tự, thủ tục thực hiện các hoạt động này được Luật Tố cáo quy định bằng 5 bước:

1. Tiếp nhận, xử lý thông tin tố cáo;

2. Xác minh nội dung tố cáo;

3. Kết luận nội dung tố cáo;

4. Xử lý tố cáo của người giải quyết tố cáo;

5. Công khai kết luận nội dung tố cáo, quyết định xử lý hành vi vi phạm bị tố cáo[1].

Hiện nay, việc giải quyết tố cáo hành chính đang được thực hiện theo Luật Khiếu nại, tố cáo, Nghị định 136/2006/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật khiếu nại, tố cáo, Thông tư số Thông tư 01/2009/TT-TTCP quy định quy trình giải quyết tố cáo do Thanh tra Chính phủ ban hành. Tại Thông tư số 01/2009/TT-TTCP, việc giải quyết tố cáo được các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành với quy trình gồm 3 bước là: (i) chuẩn bị giải quyết tố cáo; (ii) tiến hành xác minh nội dung tố cáo; (iii) kết thúc giải quyết tố cáo. Về cơ bản, quy trình giải quyết tố cáo như các quy định hiện hành vẫn có rất nhiều điểm tương thích, có thể tiếp tục được kết thừa trở thành những thủ tục pháp lý để tiến hành giải quyết tố cáo theo yêu cầu của Luật Tố cáo. Trong đó, đặc biệt là những nội dung liên quan đến vấn đề tiếp nhận, xác minh, kết luận nội dung tố cáo và xử lý tố cáo. Tuy nhiên, do có sự thay đổi qua việc bổ sung các quyền như đã nêu trên, có thể thấy thủ tục pháp lý giải quyết tố cáo cũng cần có những sửa đổi, bổ sung, trong đó cần nhấn mạnh đến việc bảo đảm thực hiện những quyền mới của các chủ thể, tập trung vào một số nội dung sau:

Thứ nhất, về hình thức, với yêu cầu về trình tự, thủ tục giải quyết tố cáo như quy định tại Điều 18 Luật Tố cáo, các văn bản hướng dẫn thi hành cũng cần phân định các bước giải quyết tố cáo thống nhất về trình tự, thủ tục này.

Thứ hai, cần khẳng định rằng, với tư cách là quyền, các chủ thể được tự do ý chí trong việc lựa chọn việc thực hiện quyền của mình hay không. Việc các chủ thể từ chối thực hiện các quyền của mình có thể ảnh hưởng trực tiếp đến quyền và lợi ích trực tiếp của các chủ thể (đối với người tố cáo và người bị tố cáo) và quyền, lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân (đối với người giải quyết tố cáo). Với người tố cáo và người bị tố cáo, hậu quả pháp lý của việc từ chối thực hiện các quyền có thể ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của họ. Do đó, chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo có trách nhiệm thông báo cho người tố cáo và người bị tố cáo biết các quyền của mình, coi đây là một nghĩa vụ của chủ thể có thẩm quyền giải quyết tố cáo nên. Đối với người giải quyết tố cáo trong trường hợp không sử dụng các quyền của mình dẫn đến có sai sót trong quá trình giải quyết thì cần bị truy cứu trách nhiệm pháp lý tương ứng.


Thứ ba, mặc dù các bên trong giải quyết tố cáo có rất nhiều quyền nhưng các quyền đó không phát sinh trong tất cả các giai đoạn của quá trình giải quyết. Vì vậy, cần phân định rõ các quyền phát của các bên liên quan trong quá trình giải quyết tố cáo. Việc phân định rõ các quyền phát sinh trong các giai đoạn giải quyết tố cáo sẽ hạn chế được những tranh chấp về quyền giữa các bên liên quan, đồng thời, đó cũng là cơ sở để xác lập nghĩa vụ tương ứng của các chủ thể.

Thứ tư, việc bổ sung một số quyền mới của các bên trong Luật Tố cáo đặt ra yêu cầu phải bảo đảm tính tương thích giữa Luật Tố cáo với các văn bản quy phạm pháp luật khác. Ví dụ như, người bị tố cáo có quyền được khôi phục quyền, lợi ích hợp pháp bị xâm phạm, được xin lỗi, cải chính công khai, được bồi thường thiệt hại do việc tố cáo, giải quyết tố cáo không đúng gây ra. Để bảo đảm người bị tố cáo có thể thực hiện quyền này thì thủ tục giải quyết tố cáo phải viện dẫn quy định về bồi thường nhà nước hoặc quy định tiết hơn với những nội dung có tính đặc thù trong giải quyết tố cáo.

Thứ năm, hoàn thiện các biểu mẫu, tạo thuận lợi cho việc tố cáo, việc giải quyết tố cáo cũng như thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tố cáo. Do tố cáo là quyền cơ bản của công dân, việc giải quyết tố cáo được thực hiện ở tất cả các cấp, từ Trung ương đến cơ sở và liên quan đến nhiều tầng lớp dân cư khác nhau, vì vậy, các thủ tục giải quyết tố cáo cần được hướng dẫn chi tiết nhưng phải rõ ràng, dễ hiểu, dễ áp dụng trực tiếp. Cùng với việc hoàn thiện các mẫu biểu hiện hành, cần bổ sung một số mẫu biểu khác như thông báo chuyển vụ việc tố cáo sang cơ quan có thẩm quyền giải quyết, thông báo kết quả giải quyết tố cáo (để gửi cho người tố cáo), thông báo về nội dung tố cáo (để gửi cho người bị tố cáo)…


ThS. Nguyễn Tuấn Khanh

Phó Viện trưởng Viện Khoa học Thanh tra