Một "cơn gió lạ" In
Thứ hai, 28 Tháng 3 2011 02:48

Trần Ngọc Thu Hà

(SV khoá 33, khoa GDTH)

“Cơn gió lạ” là cái tên mà tôi đặt cho Chuyên đề 7: Phương pháp dạy học “ Bàn tay nặn bột” (La main à la pâte).

“Cơn gió” ấy mang đến cho chúng tôi một cách học mới: xây dựng cơ sở lí thuyết trên nền tảng thực hành. Những kiến thức khoa học lí thú được xây dựng, kiểm chứng, những kết luận khoa học được rút ra qua từng thí nghiệm chứ không chỉ “học vẹt”, “biết chay” qua những trang sách khô khan như từ trước đến nay.

Chúng tôi cùng nhau học tập, tìm hiểu một phương pháp dạy học tích cực, phương pháp Bàn tay nặn bột, qua nhiều “vai”: Sinh viên, học sinh tiểu học, các nhà nghiên cứu khoa học… Mỗi buổi học đều để lại cho chúng tôi những cảm xúc sâu sắc, những ấn tượng khó quên ! Trong quá trình học chuyên đề này, những vấn đề khoa học tưởng như đã  quá gần gũi, quen thuộc với chúng tôi bỗng trở nên hết sức lí thú thông qua cách tiếp cận mới lạ.

Có bao giờ bạn tự hỏi: Nước có những tính chất gì ? làm thế nào để biết được điều đó ? Làm thế nào để biết xung quanh chúng ta có không khí ? không khí có những thành phần nào ? chất khí nào duy trì sự cháy và sự sống ? Làm thế nào để biết tại sao có âm thanh ? Âm thanh có thể lan truyền trong những môi trường nào ? Làm thế nào để biết tại sao có gió ? vv và vv. Chỉ cần làm một số thí nghiệm đơn giản, bạn sẽ tìm được câu trả lời. Đó là các kiến thức khoa học mà ta sẽ không bao giờ quên nhờ được trực tiếp “nhúng tay vào bột” như cái tên của phương pháp, có nghĩa là trực tiếp trải nghiệm, tự mình tìm ra kiến thức mới. Lớp học bỗng chốc biến thành “phòng thí nghiệm”, sinh viên trở thành ‘nhà nghiên cứu”, những vật dụng quen thuộc, rẻ tiền, dễ kiếm hay những phế liệu có thể tái chế mà bạn nhặt nhạnh ở đâu đó bỗng biến thành dụng cụ thí nghiệm: vỏ chai nước suối, ống hút, đất nặn, bịch nilon, bóng bay, li, tách, xô, chậu…  Kiến thức khoa học được hình thành từ những vật dụng đơn giản như thế đấy. Ngoài ra, bạn vừa có thể làm khoa học vừa bảo vệ môi trường !

Với mong muốn tìm hiểu những khó khăn và thuận lợi của chính học sinh tiểu học khi học tập bằng phương pháp BTNB, chúng tôi hoá thân thành chính các em. Mỗi người chuẩn bị một cuốn vở để “lưu lại” quá trình làm việc của mình. Vừa phải làm thí nghiệm, vừa phải chăm chút câu chữ trong bài báo cáo, vừa phải tìm cách “sơ đồ hoá” tiến trình thí nghiệm, rồi báo cáo trước lớp…cho nên chúng tôi tốn khá nhiều thời gian và công sức. Tuy nhiên, chúng tôi nhận thấy đây là cơ hội rất tốt để học sinh sở hữu một công cụ quan trọng của một nhà nghiên cứu: biết diễn đạt những hiểu biết của mình bằng nhiều cách khác nhau.

Tuy là sinh viên nhưng không phải thí nghiệm nào chúng tôi cũng thực hiện suôn sẻ. Khâu lựa chọn đồ dùng, vật liệu, xây dựng các bước thí nghiệm đóng vai trò quan trọng. Đôi khi chúng tôi nếm trải thất bại nhiều lần mới đi đến được những kết luận khoa học chính xác. Điều này sẽ giúp chúng tôi hiểu được những khó khăn mà học sinh tiểu học gặp phải khi thực hành thí nghiệm.

Chúng tôi được chia thành các nhóm khoảng 7 hoặc 8 người. Khi làm việc, mọi người đều có “quyền lợi và nghĩa vụ” đưa ra ý kiến của mình. Tư duy độc lập được phát triển, tinh thần hợp tác nhóm được xây dựng. Cá nhân bảo vệ ý kiến của mình nhưng đồng thời cũng phải biết lắng nghe ý kiến của bạn, của tập thể. Ai cũng được luân phiên làm nhóm trưởng, làm thư kí. Điều này rèn cho học sinh khả năng tổ chức, xây dựng kế hoạch làm việc cho nhóm…

Tôi cho rằng nếu học sinh tiểu học được tìm hiểu những kiến thức khoa học theo phương pháp BTNB, chắc chắn các em sẽ học tập với niềm vui thích vô tận. Đó cũng chính là những cảm xúc mà tôi đã trải qua sau mỗi tiết của chuyên đề. Được tự do, khám phá, tìm tòi những vấn đề khoa học quen thuộc để từ đó xây dựng, đúc kết thành một phương pháp dạy học, đây là cách học đầy sáng tạo, chứ không phải học lí thuyết “suông” một cách áp đặt. Mỗi ngày đến lớp tôi cảm thấy không có sự gò bó, buồn chán mà là niềm vui, niềm hứng khởi học tập.

Chúng tôi hi vọng với phương pháp dạy học tích cực này,  chúng tôi có thể  đem đến cho học sinh tương lai của mình những trải nghiệm lí thú về việc hình thành những kiến thức khoa học, đồng thời góp phần phát triển năng lực cá nhân của từng em, giúp các em phát huy tinh thần hợp tác làm việc nhóm. Theo tôi, đấy là những kĩ năng sống quan trọng, giúp các em thích ứng với một cuộc sống năng động và hiện đại, là hành trang cần thiết để các em vào đời. Mong sao với phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột, “mỗi ngày đến trường” của các em sẽ luôn là “mỗi ngày vui”.

 TP. Hồ Chí Minh tháng 11 năm 2010