Sơ lược quá trình xác lập chủ quyền biển Việt Nam In


SƠ LƯỢC QUÁ TRÌNH XÁC LẬP

CHỦ QUYỀN BIỂN VIỆT NAM

 

1. Các hiệp định và thỏa thuận giữa Việt Nam và các nước liên quan đến Biển Đông

1.1. Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

 

 

Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có chung đường biên giới. Trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử quan hệ giữa hai nước và với sự phát triển của luật biển quốc tế, giữa hai nước tồn tại ba vấn đề biên giới lãnh thổ phải giải quyết là vấn đề biên giới trên đất liền, vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ và vấn đề trên Biển Đông (vấn đề hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa và phân định biển trên Biển Đông). Tiếp theo việc hai nước ký Hiệp ước về biên giới trên đất liền năm 1999, trong năm 2000, năm cuối cùng của thế kỷ XX, hai nước cũng đã hoàn tất quá trình đàm phán kéo dài 27 năm từ năm 1974 và ký kết được Hiệp định về phân định lãnh hải, vùng đặc quyền về kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ, cũng như Hiệp định về hợp tác nghề cá trong vịnh giữa hai nước. Đây là những hiệp định quan trọng, có ý nghĩa lịch sử.

 

1.1.1. Các nội dung và yếu tố liên quan đến phân định

a. Các nội dung phân định:

- Phân định lãnh hải của hai nước;

- Phân định vùng đặc quyền kinh tế;

- Phân định thềm lục địa.

b. Các yếu tố liên quan:

- Quyết tâm chính trị của hai nước giải quyết vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ: Nhận thức chung của Lãnh đạo cấp cao hai nước là giải quyết xong vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ trong năm 2000 (thoả thuận trong các chuyến đi thăm Trung Quốc của Tổng Bí thư Đỗ Mười năm 1997 và Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu năm 1999).

- Vấn đề phân định vịnh Bắc Bộ, dù thoả thuận như thế nào cũng phải bảo đảm nguyên tắc công bằng, phù hợp với luật pháp và thực tiễn quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật biển năm 1982.

- Điều kiện cụ thể và hoàn cảnh khách quan của vịnh Bắc Bộ, trong đó chủ yếu là điều kiện địa lý tự nhiên.

- Các lợi ích thực chất gắn với nội dung phân định như: diện tích vùng biển phân định được hưởng (hoặc vấn đề lãnh thổ đảo, nếu có); quyền chủ quyền đối với tài nguyên dầu khí, hải sản; chế độ đi lại trên biển và sông biên giới.

- Đồng thời, giải pháp phân định cần đạt được trên cơ sở thông cảm nhân nhượng lẫn nhau, công bằng và hợp tình, hợp lý.

c. Quan điểm và lập trường chính của mỗi bên

Trong quá trình đàm phán, hai bên tập trung giải quyết một số vấn đề cơ bản như sau:

* Về tỷ lệ phân chia diện tích tổng thể vịnh Bắc Bộ:

Quan điểm cơ bản của phía Trung Quốc là, do điều kiện "địa lý chính trị" của vịnh Bắc Bộ giữa hai nước là đại để đối đẳng nên kết quả phân chia diện tích vịnh giữa hai nước phải "đại thể bằng nhau", phía Việt Nam có thể hơn một ít nhưng chênh lệch không nhiều. "Đại để bằng nhau" chính là kết quả phân định" công bằng.

Để bảo đảm yêu cầu này, phía Trung Quốc sử dụng phương pháp phân định tổng hợp, trong đó có chỗ sử dụng điểm và đoạn trung tuyến bờ - bờ để thể hiện đường phương án phân định của mình.

Quan điểm của Việt Nam là cần căn cứ luật pháp và thực tiễn quốc tế, hoàn cảnh khách quan của vịnh Bắc Bộ để phân định nhằm tìm kiếm một giải pháp công bằng. Tỷ lệ diện tích là hệ quả, không phải là tiền đề của việc phân định, công bằng không đồng nghĩa với "chia đôi".

Ta đề nghị dùng phương pháp đường trung tuyến, là phương pháp phổ biến trong thực tiễn quốc tế, có tính đến hiệu lực của tất cả các đảo, đặc biệt là đảo Bạch Long Vĩ, có sự điều chỉnh cần thiết theo hiệu lực pháp lý và sự quan tâm của mỗi bên.

Vùng chồng lấn ban đầu của hai bên chiếm khoảng 13% diện tích Vịnh.

* Hiệu lực của đảo, trong đó có đảo Bạch Long Vĩ:

Phía Trung Quốc không muốn các đảo Việt Nam có hiệu lực trong phân định, đảo Bạch Long Vĩ chỉ có vành đai lãnh hải 12 hải lý (vì mục đích này, họ cũng không cho các đảo của họ có hiệu lực, trừ Hải Nam được coi là lục địa).

Đối với đảo Bạch Long Vĩ, phía Trung Quốc thừa nhận chủ quyền của Việt Nam đối với đảo Bạch Long Vĩ nhưng cho rằng nếu cho đảo có hiệu lực, sẽ làm đường phân định đi lệch quá nhiều về phía Trung Quốc, dẫn đến kết quả không công bằng.

Phía Việt Nam muốn các đảo Việt Nam có hiệu lực trong phân định. Tuy nhiên, căn cứ vào thực tiễn quốc tế, Việt Nam đề nghị đảo Bạch Long Vĩ của Việt Nam nhất thiết phải có hiệu lực nhất định trong phân định, việc xem xét hiệu lực của đảo phải căn cứ vào Công ước 1982 và thực tiễn quốc tế nhằm bảo đảm giải pháp phân định công bằng.

* Về đường đóng cửa Vịnh:

Căn cứ vào hiệu lực pháp lý của đảo, ta đề nghị đường đóng cửa Vịnh là đường thẳng nối đảo Cồn Cỏ (Việt Nam và Mũi Oanh Ca (Trung Quốc). Trên cơ sỏ đó xác định điểm biên giới ở cửa Vịnh.

Phía Trung Quốc đề nghị không tính đảo Cồn Cỏ vào phạm vi Vịnh mà lấy đường thẳng nối Mũi Lay (Việt Nam) với Mũi Oanh Ca (Trung Quốc).

Hai bên có sự khác nhau khoảng 13 hải lý.

* Về nghề cá:

Việt Nam đề nghị hai bên phân định rạch ròi ranh giới vùng đặc quyền kinh tế giữa hai nước trong Vịnh, trên cơ sở đó giải quyết tiếp vấn đề hợp tác nghề cá. Vấn đề đánh cá là vấn đề thuộc lĩnh vực kinh tế - kỹ thuật, phụ thuộc nhiều vào yếu tố tài nguyên, môi trường nên không thể gắn vào Hiệp định phân định là vấn đề lâu dài về biên giới.

Phía Trung Quốc nêu nguồn tài nguyên sinh vật trong vịnh Bắc Bộ là chung, có tính chuyển dịch, không thể chia cắt. Từ lâu ngư dân hai nước đều cùng đánh bắt trong Vịnh. Vịnh Bắc Bộ là ngư trường đánh cá truyền thống của cả ngư dân hai nước. Khi phân định cần bảo đảm "quyền đánh cá truyền thống" của ngư dân Trung Quốc trong vùng đánh cá truyền thống ở Vịnh. Nếu không bảo đảm quyền đánh cá của ngư dân Trung Quốc thì sẽ không thể phân định. Vấn đề quyền đánh cá liên quan trực tiếp đến sự sinh sống của nhiều ngư dân Trung Quốc. Trong quá khứ, hai bên đã ký các Hiệp định hợp tác đánh cá. Phía Trung Quốc muốn đưa vấn đề nghề cá vào trong Hiệp định phân định.

* Vấn đề Tổng đồ phân định vịnh Bắc Bộ và bản đồ chuyên đề cửa sông Bắc Luân:

Để có thể xác định đường phương án phân định, hai bên phải thống nhất một bản đồ chung. Hai bên không đồng ý sử dụng bản đồ nước thứ ba cũng như bản đồ đơn phương của mỗi bên nên đã đồng ý cùng nhau thiết lập một bản đồ chung. Vấn đề nổi lên trong việc thành lập bản đồ chung là phương pháp thiết lập bao gồm đo sâu, bay chụp và đo khống chế mặt đất và vấn đề thể hiện đường bờ biển trên tổng đồ.

Hai bên thống nhất lập tổng đồ vịnh Bắc Bộ phục vụ phân định tỷ lệ 1/500.000 theo phương pháp bay chụp và đo khống chế mặt đất, thể hiện đồng thời hai đường bờ thấp và cao trên tổng đồ.

Để xác định điểm cơ sở cuối cùng của mỗi bên tại ngấn nước triều thấp nhất, đường đóng cửa sông và phân biệt vùng cửa sông thuộc biên giới trên bộ và vùng cửa sông thuộc phân định vịnh Bắc Bộ và địa hình cụ thể của khu vực cửa sông biên giới phục vụ phân định, hai bên đồng ý cùng đo đạc và lập bản đồ chuyên đề khu vực cửa sông Bắc Luân tỷ lệ 1/10.000.

 

1.1.2. Kết quả đàm phán và nội dung Hiệp định phân định

Căn cứ vào Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982, các nguyên tắc luật pháp và thực tiễn quốc tế được công nhận rộng rãi, trên cơ sở suy xét đầy đủ mọi hoàn cảnh hữu quan trong vịnh Bắc Bộ, theo nguyên tắc công bằng, qua thương lượng hữu nghị, hai bên đã đi đến ký kết Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước bao gồm 11 điều khoản với các nội dung cụ thể như sau:

(1) Hai bên khẳng định các nguyên tắc chỉ đạo công tác phân định là tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi, cùng tồn tại hoà bình; củng cố và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước, giữ gìn sự ổn định và thúc đẩy sự phát triển của vịnh Bắc Bộ; thông cảm, nhân nhượng lẫn nhau, hiệp thương hữu nghị, giải quyết một cách công bằng hợp lý.

(2) Hai bên xác định phạm vi phân định vịnh Bắc Bộ:

- Trong Hiệp định này, vịnh Bắc Bộ là Vịnh nửa kín được bao bọc ở phía Bắc là bờ biển lãnh thổ đất liền của hai nước Việt Nam và Trung Quốc, phía Đông là bờ biển bán đảo Lôi Châu và đảo Hải Nam của Trung Quốc, phía Tây là bờ biển đất liền Việt Nam và giới hạn phía Nam là đoạn đường thẳng nối liền từ điểm nhô ra nhất của mép ngoài cùng của mũi Oanh Ca, đảo Hải Nam của Trung Quốc có tọa độ địa lý là vĩ tuyến 18030'19'' Bắc, kinh tuyến 108041'17'' Đông, qua đảo Cồn Cỏ đến một điểm trên bờ biển của Việt Nam có tọa độ địa lý là vĩ tuyến 16057'40'' Bắc và kinh tuyến 107008'42'' Đông.

- Đường đóng cửa sông Bắc Luân là đường nối hai điểm nhô ra nhất của cửa sông tự nhiên trên bờ sông hai nước, tại ngấn nước triều thấp nhất;

- Qua đàm phán, phía Trung Quốc đồng ý với đề nghị của ta là đường đóng cửa Vịnh ở phía Nam là đường thẳng nối mũi Oanh Ca (Trung Quốc) qua đảo Cồn Cỏ và cắt thẳng vào một điểm trên bờ biển Việt Nam.

(3) Xác định đường biên giới lãnh hải và ranh giới đơn nhất cho cả vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ:

- Hai bên đồng ý xác định đường phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ bằng 21 điểm có toạ độ địa lý xác định, nối tuần tự với nhau bằng các đoạn thẳng.

- Đường phân định từ điểm số 1 đến điểm số 9 quy định tại Điều II của Hiệp định là biên giới lãnh hải của hai nước trong Vịnh Bắc Bộ. Mặt thẳng đứng đi theo đường biên giới lãnh hải của hai nước phân định vùng trời, đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của lãnh hải hai nước.

- Đường phân định từ điểm số 9 đến điểm số 21 là ranh giới giữa vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của hai nước trong vịnh Bắc Bộ.

- Đường biên giới này đi cách đảo Bạch Long Vĩ điểm gần nhất về phía Đông là 15 hải lý, dành cho đảo khoảng 25% hiệu lực. Đảo Cồn Cỏ được tính 50% hiệu lực trong phân định vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa. Bãi Bạch Tô Nham (Trung Quốc) và các đảo Chàng Đông, Chàng Tây (Việt Nam) có hiệu lực nhất định trong phân định lãnh hải.

Theo đường phân định, phía Việt Nam được hưởng 53,23% diện tích vịnh, phía Trung Quốc được 46,77% diện tích, Việt Nam hơn Trung Quốc 6,46% diện tích Vịnh, tức là khoảng 8.205 km2 biển. Căn cứ vào việc áp dụng nguyên tắc công bằng trong phân định và tiến hành đánh giá tính tỷ lệ giữa bờ biển của hai nước (tỷ số là 1,1:1) với tỷ lệ diện tích được hưởng (tỷ số là 1,135:1), có thể nhận thấy rằng đường phân định trong vịnh Bắc Bộ quy định trong hiệp định ký kết giữa hai nước là một kết quả công bằng, phù hợp với hoàn cảnh khách quan của vịnh Bắc Bộ và có thể chấp nhận.

(4) Về chế độ pháp lý:

Hai bên cam kết tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của mỗi bên đối với lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ được xác định theo hiệp định.

(5) Về mặt tài nguyên:

Hiệp định quy định rõ trong trường hợp có các cấu tạo mỏ dầu, khí tự nhiên hoặc cấu tạo mỏ khác hoặc tài nguyên khoáng sản khác nằm vắt ngang đường phân định, hai bên ký kết thông qua hiệp thương hữu nghị để đạt được thoả thuận về việc khai thác hữu hiệu nhất các cấu tạo hoặc khoáng sản nói trên cũng như việc phân chia công bằng lợi ích thu được từ việc khai thác.

Hai bên cũng đồng ý tiến hành hiệp thương về việc sử dụng hợp lý và phát triển bền vững tài nguyên sinh vật trong vịnh Bắc Bộ cũng như hợp tác liên quan đến bảo tồn, quản lý và sử dụng tài nguyên sinh vật ở vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa hai nước trong vịnh Bắc Bộ.

(6) Về cơ chế giải quyết tranh chấp. Hai bên cam kết mọi tranh chấp giữa hai bên ký kết liên quan đến việc giải thích và thực hiện hiệp định này sẽ được giải quyết một cách hoà bình, hữu nghị thông qua thương lượng.

Việc phân định vịnh Bắc Bộ hai nước theo hiệp định này không ảnh hưởng hoặc phương hại đến lập trường của mỗi bên đối với quy phạm luật pháp quốc tế về luật biển.

1.1.3. Kết quả và ý nghĩa của việc ký kết các hiệp định trong vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

1. Việc ký kết các hiệp định trên được đánh giá là một trong 10 sự kiện nổi bật của Việt Nam trong năm 2000. Trước mắt, hai nước còn phải tiến hành các thủ tục phê chuẩn và trao đổi thư phê chuẩn thì các Hiệp định này mới có hiệu lực.

2. Việc ký kết các hiệp định này mở ra một trang mới trong lịch sử quan hệ Việt Nam - Trung Quốc cũng như trong lịch sử xác định biên giới biển và hợp tác nghề cá trên Biển Đông, là một sự kiện quan trọng đối với nước ta cũng như quan hệ Việt - Trung.

Tuyên bố chung Việt Nam - Trung Quốc ngày 25/12/2000 nhấn mạnh: Việc hai nước ký kết "Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước Cộng hoà xã hội chủ ngĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa trong vịnh Bắc Bộ giữa nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa", "Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa" có ý nghĩa lịch sử sâu rộng, sẽ thúc đẩy hơn nữa quan hệ láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện giữa hai nước phát triển mạnh hơn nữa trong thế kỷ XXI. Hai bên cam kết sẽ nghiêm chỉnh thực hiện các thoả thuận liên quan đã ký kết giữa hai nước, tích cực hợp tác, nỗ lực xây dựng biên giới hai nước thành biên giới hoà bình, hữu nghị.

3. Với việc ký kết Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ, chúng ta đã giải quyết dứt điểm được vấn đề thứ hai trong ba vấn đề biên giới lãnh thổ tồn tại lâu nay với Trung Quốc (biên giới trên bộ, vịnh Bắc Bộ và Biển Đông).

Lần đầu tiên, giữa ta và Trung Quốc đã có một đường biên giới biển rõ ràng bao gồm biên giới lãnh hải, ranh giới vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ có giá trị pháp lý quốc tế, được hai bên cùng thoả thuận.

Hiệp định quy định rõ hai bên cam kết tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán quốc gia của mỗi nước đối với các vùng biển và thềm lục địa của mỗi bên căn cứ vào luật pháp quốc tế và nội dung cả Hiệp định.

Nội dung của Hiệp định là một giải pháp và kết quả công bằng, có cơ sở luật pháp và thực tiễn quốc tế, phù hợp với điều kiện hoàn cảnh khách quan của vịnh Bắc Bộ, đáp ứng một cách hợp tình, hợp lý lợi ích chính đáng của mỗi bên.

4. Các Hiệp định về phân định trong vịnh Bắc Bộ và Hiệp định về hợp tác nghề cá đã các định rõ phạm vi và tạo ra được một khuôn khổ pháp lý quốc tế rõ ràng, thuận lợi cho việc mỗi nước bảo vệ, quản lý, sử dụng, khai thác, phát triển kinh tế các vùng biển và thềm lục địa của mình trong vịnh Bắc Bộ, đồng thời cũng tạo điều kiện cho hai bên có cơ sở thúc đẩy hợp tác nhằm phát triển bền vững vịnh Bắc Bộ, duy trì sự ổn định trong Vịnh, tăng cường sự tin cậy và phát triển quan hệ chung giữa hai nước.

Cùng với việc giải quyết các tranh chấp trên biển khác với các nước láng giềng có liên quan, việc ký kết hai hiệp định này là bước tiến mới trong việc xây dựng môi trường hoà bình, ổn định, hợp tác xung quanh nước ta, tạo điều kiện cho chúng ta tập trung sức lực xây dựng và phát triển đất nước, góp phần tích cực vào việc củng cố hoà bình và ổn định trong khu vực.

5. Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ cũng có những đóng góp trong thực tiễn áp dụng và phát triển luật quốc tế về phân định như vấn đề phân định giữa hai nước có bờ biển vừa đối diện vừa tiếp giáp, vai trò của các đảo, các bãi nửa nổi nửa chìm trong phân định, vấn đề cửa sông biên giới với các địa hình đáy sông, đáy biển, vấn đề cửa vịnh, vấn đề eo biển quốc tế, giá trị của bản đồ trong hiệp ước biên giới... Hiệp định về hợp tác nghề cá cũng là một mô hình có giá trị đối với việc nghiên cứu, giải quyết các vấn đề về nghề cá trong khu vực Biển Đông trong tương lai.

6. Việc ký kết các hiệp định này một lần nữa đã thể hiện chính sách đúng đắn và thiện chí của nước ta sẵn sàng cùng các nước liên quan thông qua thương lượng trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau, toàn vẹn lãnh thổ, phù hợp với luật quốc tế và thực tiễn quốc tế, giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ, các vùng biển và thềm lục địa có liên quan, phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị với các nước, góp phần giữ gìn hoà bình, ổn định trong khu vực và thế giới.

1.2. Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

1.2.1. Tình hình và kết quả đàm phán về Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

a. Sự cần thiết và ý nghĩa của việc ký Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ

Vịnh Bắc Bộ có nguồn lợi hải sản phong phú. Vào các năm 1957, 1961 và 1963, hai nước Việt Nam - Trung Quốc đã ký các thoả thuận cho phép thuyền buồm của hai bên được đánh bắt trong vịnh ngoài phạm vi 3 hải lý, 6 hải lý và 12 hải lý tính từ bờ biển và hải đảo mỗi bên. Các thoả thuận này đã hết hiệu lực vào đầu những năm 70. Trong quá trình đàm phán về hoạch định vịnh Bắc Bộ, phía Trung Quốc kiên trì đề nghị dàn xếp nghề cá bằng việc lập Vùng đánh cá chung, đồng thời với việc phân định vịnh Bắc Bộ và nhấn mạnh việc gắn thoả thuận này với vấn đề hoạch định vịnh Bắc Bộ.

Việt Nam chủ trương tách vấn đề nghề cá ra khỏi vấn đề hoạch định; mặt khác cũng nhận thức rõ nhu cầu khách quan cần giải quyết vấn đề nghề cá với tư cách là một vấn đề kinh tế - kỹ thuật và không ảnh hưởng đến việc giải quyết vấn đề hoạch định vịnh Bắc Bộ.

Trong bối cảnh năng lực đánh bắt hiện nay của hai bên thì việc chấp nhận Vùng đánh cá chung là sự thể hiện thái độ thiện chí, tích cực, có nguyên tắc, phù hợp với thông lệ và luật pháp quốc tế của ta.

Việc lập Vùng đánh cá chung cũng đang được áp dụng trong một số trường hợp trên thế giới. Các quy định trong Hiệp định hợp tác nghề cá giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng hoàn toàn nằm trong khuôn khổ của Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982.

Việc ký Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ sẽ tạo cơ sở để mở ra hợp tác nghề cá toàn diện với Trung Quốc cũng như tăng cường, mở rộng các hình thức hợp tác nghề cá với các nước khác.

b. Kết quả đàm phán về Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ

Qua sáu vòng đàm phán cấp chuyên viên về nghề cá, qua thương lượng, hai bên đã nhất trí hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ bằng việc thiết lập một Vùng đánh cá chung với phạm vi hợp lý và cơ chế quản lý thích hợp:

+ Phạm vi Vùng đánh cá chung trong vịnh Bắc Bộ từ vĩ tuyến 200 Bắc xuống đường đóng cửa Vịnh, bề rộng là 30,5 hải lý kể từ đường phân định về mỗi phía; có tổng diện tích là 33.500 km2, tức là khoảng 27,9% diện tích Vịnh. Như vậy, bảo đảm cách bờ của mỗi nước là 30 hải lý: đại bộ phận cách bờ của ta 35 - 59 hải lý, chỉ có hai điểm cách bờ 28 hải lý là ở Mũi Ròn và Mũi Độc (Hà Tĩnh - Quảng Bình). Thời hạn của Vùng đánh cá chung là 15 năm (12 năm chính thức và ba năm gia hạn).

+ Cơ chế quản lý hoạt động Vùng đánh cá chung bảo đảm ba nguyên tắc lớn là: vùng đặc quyền kinh tế của nước nào thì nước đó có quyền kiểm tra, kiểm soát và xử lý các tàu cá được phép vào vùng đánh cá chung; sản lượng và số lượng tàu thuyền được phép vào vùng đánh cá chung là dựa trên nguyên tắc bình đẳng, căn cứ vào sản lượng được phép đánh bắt, được xác định thông qua điều tra định kỳ; mỗi bên đều có quyền liên doanh hợp tác đánh cá với bên thứ ba trong vùng đặc quyền kinh tế của mình. Hai bên thoả thuận lập Uỷ ban Liên hợp nghề cá để xây dựng quy chế và thực hiện việc quản lý Vùng đánh cá chung.

Ngoài Vùng đánh cá chung ra, bai bên thoả thuận về dàn xếp quá độ với thời hạn bốn năm ở vùng biển phía Bắc vĩ tuyến 200 cho tàu thuyền của hai bên tiếp tục đánh bắt. Phạm vi cụ thể của vùng này hai bên sẽ tiếp tục thảo luận. Sau thời hạn quá độ thì tàu thuyền của các bên về đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế của mình, không được đánh cá ở vùng đặc quyền kinh tế của bên kia nữa, trừ khi được bên kia cho phép.

Đồng thời, hai bên cũng thoả thuận lập một vùng đệm nhỏ ở ngoài cửa sông Bắc Luân với mục đích là tạo thuận lợi cho việc ra, vào của tàu cá nhỏ (nếu phát hiện các tàu cá đó đánh cá thì cảnh cáo và buộc rời khỏi vùng nước của mình). Vùng này dài 10 hải lý và rộng hải lý tính từ đường phân định về mỗi bên.

1.2.2. Nội dung Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

"Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng hoà nhân dân Trung Hoa" ký ngày 25/12/2000 tại Bắc Kinh, gồm có mở đầu, bảy phần, 22 điều và một phụ lục.

Phần mở đầu: Nêu mục đích và nguyên tắc chỉ đạo việc hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ là hợp tác bình đẳng cùng có lợi, nhằm bảo tồn và khai thác bền vững tài nguyên sinh vật biển, tăng cường hợp tác nghề cá giữa hai nước trong vịnh Bắc Bộ, giữ gìn và phát triển mối quan hệ láng giềng hữu nghị truyền thống giữa hai nước, tôn trọng Công ước của Liên Hợp quốc về Luật biển năm 1982 và Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ.

Phần I: Các quy định chung (2 điều):

- Điều 1 quy định "Phạm vi áp dụng của Hiệp định" là một phần vùng đặc quyền kinh tế của hai nước trong vịnh Bắc Bộ, bao gồm: Vùng đánh cá chung, Vùng dàn xếp quá độ (vùng nước quá độ) và vùng đệm cho tàu cá nhỏ ở phía ngoài cửa sông Bắc Luân.

- Điều 2 quy định "Nguyên tắc chung" khẳng định sự hợp tác nghề cá trên cơ sở tôn trọng chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán của nhau; không ảnh hưởng đến chủ quyền lãnh hải của mỗi nước và các quyền lợi khác thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước.

Phần II: Vùng đánh cá chung: Gồm 8 điều từ Điều 3 đến Điều 10 quy định:

- Phạm vi vùng đánh cá chung (Điều 3): Là vùng biển thuộc vùng đặc quyền kinh tế của mỗi nước nằm về phía Bắc của đường đóng cửa vịnh Bắc Bộ, về phía Nam của vĩ tuyến 200 Bắc và cách đường phân định vịnh Bắc Bộ 30,5 hải lý về mỗi phía.

Phạm vi cụ thể của Vùng đánh cá chung là vùng nước nằm trong các đoạn đường thẳng tuần tự nối liền 16 điểm có vĩ độ và kinh độ đã được xác định trên Tổng đồ toàn diện vịnh Bắc Bộ đính kèm theo Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ.

- Quy mô đánh bắt (Điều 6): Hai bên giao quyền cho Uỷ ban Liên hợp nghề cá vịnh Bắc Bộ Việt - Trung xác định số lượng tàu cá hàng năm của mỗi bên vào hoạt động đánh bắt trong vùng đánh cá chung trên nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi, phù hợp tình trạng nguồn lợi thuỷ sản và các yếu tố hữu quan khác.

- Cơ chế quản lý (Điều 9): Cơ quan thẩm quyền mỗi bên có quyền kiểm tra, kiểm soát và xử lý đối với công dân, tàu cá bên kia hoạt động ở Vùng đánh cá chung thuộc phần biển bên mình. Việc xử lý các vi phạm sẽ căn cứ vào quy định của Uỷ ban Liên hợp nghề cá hoặc luật pháp của nước mình tuỳ từng trường hợp cụ thể.

- Tàu cá nước thứ ba (Điều 10): Mỗi bên có quyền cho phép tàu thuyền nước khác vào hoạt động nghề cá trong Vùng đánh cá chung thuộc vùng nước của bên mình bằng bất kỳ hình thức hợp tác, liên doanh nào trong khuôn khổ quy mô đánh bắt của bên mình. Tàu thuyền đó phải treo cờ của bên cấp phép và phải tuân theo các quy định khác của Uỷ ban Liên hợp nghề cá.

- Việc cấp phép đánh bắt (Điều 7): Cho tàu cá hoạt động trong Vùng đánh cá chung do mỗi bên thực hiện đối với tàu cá bên mình.

Phần III: Dàn xếp quá độ (1 điều)

Điều 11 quy định vùng nước quá độ nằm về phía Bắc Vùng đánh cá chung (từ vĩ tuyến 200 N trở lên). Cho phép tàu cá mỗi bên được hoạt động trong vùng nước quá độ trong vòng bốn năm kể từ khi hiệp định có hiệu lực. Sau bốn năm mỗi bên quản lý vùng biển của mình theo chế độ vùng đặc quyền kinh tế riêng.

Phạm vi cụ thể vùng nước dàn xếp quá độ và biện pháp quản lý của việc dàn xếp quá độ sẽ do hai bên thoả thuận quy định trong nghị định thư bổ sung.

Phần IV: Vùng đệm cho tàu cá nhỏ(1 điều)

Điều 12 quy định việc thiết lập một vùng đệm cho tàu cá nhỏ của hai bên qua lại ở khu vực phía ngoài cửa sông Bắc Luân với phạm vi chiều dài 10 hải lý tính từ điểm đầu tiên của đường phân định kéo về phía Nam, chiều rộng lùi về mỗi phía 3 hải lý tính từ đường phân định, phạm vi cụ thể được tạo bởi các đoạn thẳng tuần tự nối 7 điểm có vĩ độ và kinh độ đã xác định.

Tàu cá của phía bên kia chỉ được qua lại phần nước của bên này trong vùng đệm chứ không được đánh cá ở đó. Nếu phát hiện tàu cá của phía bên kia đánh cá trong vùng nước của mình thì cảnh cáo và áp dụng các biện pháp cần thiết để buộc tàu rời khỏi vùng nước đó, nhưng kiềm chế không bắt bớ, giam giữ, xử phạt hoặc dùng vũ lực. Nếu xẩy ra những tranh chấp khác ngoài lĩnh vực hoạt động nghề cá thì các cơ quan có thẩm quyền liên quan của mỗi nước giải quyết theo luật pháp của nước mình.

Phần V: Uỷ ban Liên hợp nghề cá vịnh Bắc Bộ Việt - Trung (1 điều)

Điều 13 quy định việc thành lập, thành phần và chức trách của Uỷ ban Liên hợp nghề cá. Uỷ ban này giúp Chính phủ tổ chức thực thi Hiệp định hợp tác nghề cá khi hiệp định có hiệu lực. Uỷ ban Liên hợp nghề cá gồm mỗi bên có một đại diện do Chính phủ bổ nhiệm và một số uỷ viên.

Phần VI: Những điều khoản khác (4 điều)

Các điều 14, 15, 16 và 17 quy định về việc đảm bảo an toàn hàng hải; cứu hộ, cứu nạn; quyền đi qua không gây hại; hợp tác nghiên cứu khoa học trong vùng nước hiệp định.

Phần VII: Các điều khoản cuối cùng (5 điều)

Điều 18 đến Điều 22 quy định: việc giải quyết tranh chấp; các phụ lục, Nghị định thư bổ sung của Hiệp định; việc bổ sung, sửa đổi hiệp định; về bản đồ; thời hạn hiệu lực của hiệp định.

Phụ lục của hiệp định: Quy định về tránh nạn khẩn cấp đối với tàu cá của các bên hoạt động trong Vịnh khi gặp nạn hoặc tình hình khẩn cấp khác.

1.2.3.  Triển khai thực hiện Hiệp định hợp tác nghề cá ở vịnh Bắc Bộ giữa Việt Nam và Trung Quốc

Hiệp định hợp tác nghề cá sau khi được hai bên ký kết hoàn thành các thủ tục pháp lý cần thiết của mỗi nước, sẽ có hiệu lực vào ngày được thoả thuận trong văn kiện trao đổi giữa Chính phủ hai nước.

Để hiệp định có hiệu lực, việc tiếp theo phải làm sau khi ký hiệp định là: tiếp tục đàm phán về phụ lục của hiệp định liên quan Vùng quá độ (dàn xếp quá độ); trình Chính phủ phê duyệt hiệp định và trao đổi thư phê duyệt với phía Trung Quốc; chuẩn bị thành lập Uỷ ban Liên hợp nghề cá Việt - Trung để tiến hành họp và soạn thảo quy chế hoạt động.

Giới thiệu, giải thích để mọi tầng lớp nhân dân cả nước, đặc biệt là các tỉnh ven biển vịnh Bắc Bộ, quán triệt được ý nghĩa của việc ký hiệp định và nắm vững nội dung hiệp định như đã nêu ở trên.

Chuẩn bị điều kiện cần thiết và nâng cao năng lực quản lý hoạt động nghề cá trên biển của các cơ quan chức năng, tăng cường sự phối hợp đồng bộ nhịp nhàng giữa các ngành và các địa phương để thực hiện tốt hợp tác nghề cá trong vịnh Bắc Bộ.

Xây dựng chính sách, biện pháp cụ thể để nâng cao năng lực khai thác nguồn lợi hải sản của ta kể cả trong Vùng đánh cá chung cũng như bảo tồn tốt tài nguyên sinh vật biển trong vịnh Bắc Bộ.

Tập huấn cho cán bộ các cơ quan, đơn vị hữu quan có chức trách thực hiện việc quản lý, kiểm tra, kiểm soát hoạt động nghề cá trong vịnh Bắc Bộ để thực thi hiệp định.